Tuesday, June 30, 2015

KimCa - Tuần Triệt và Cung Mệnh

Chào mọi người.

Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh.

Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần

Mệnh VCD đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD, hãy lấy ví dụ : Một người khỏe mạnh, cường tráng ( Chủ cường ) thì không sợ phong ba bão gió của xã hội ( Khách ), đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu ( Chủ yếu ) vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết ( Khách mạnh hơn Chủ ), cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động. 

Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội.

Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa ( kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ ) là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau.

Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ : người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém.

Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương. 

Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm.

Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách...từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu...( Điền Thật ). Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc.

Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung ( không phải Đối Cung ). Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng ), nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý ( tính Dương )

ps : nếu có thời gian Kim Ca sẽ viết về Tuần Triệt tương tác lên Cục số và Vòng Trường sinh cục, vốn là một phần của chủ đề 'ý nghĩa vòng trường sinh' nhưng chưa viết được. 


+++ Comments:

(1) An Khoa
Cung VCD => Khí tán không tụ, khó thành hình, lập trường không vững.

Cần 2 điều kiện :

1. Bản cung có Trung tinh miếu vượng, có khả năng Tụ khí như Lộc Tồn, Kình Đà. 

Hoả Linh không hợp vì là Đoản thọ tinh, khí hành Hoả thiên về thăng tán, càng bất lợi.

Kiếp Không cũng loại, sức tán khí của Kiếp Không còn mạnh hơn Hoả Linh nhiều vì nó đánh thẳng vào Nguyên khí, Hoả tiên thiên.

Tả Hữu Khôi Việt vốn là trợ tinh, có cát lành, nhưng không có tính Tụ khí. Xương Khúc văn tinh cũng vậy.

Lộc Tồn tuy không hợp lắm, vì Thổ tinh thiên về trợ giúp chứ không có lập trường mạnh, nhưng Thổ của Lộc Tồn cũng là tụ khí, cho nên vẫn hợp.

Kình Đà Bạch Hổ ... về cơ bản các Hung sát tinh hành Kim ở đất miếu vượng, khí Kim được tích súc ẩn hàm bên trong đều tạo ra một thế cục có Chính khí tại bản cung và hấp thụ được khí từ nơi khác.

2. Tam phương tứ chính cần có Không vong, hoặc đa Cát thiểu Hung.

Chính khí tại Bản cung cần được giữ, tam phương cần có không vong để kìm chế sức hút khí của các cung. Sát hung tinh có xu hướng lấy cắp khí mạnh hơn Cát tinh, Cát tinh về cơ bản có xu hướng hỗ trợ hơn lôi kéo. Cho nên đa Cát tinh là hợp.

Lưu ý, các "phản cách" có quy luật khá nghiêm ngặt, chỉ cần một điểm sai sẽ làm cả hệ thống sai. Cho nên nếu không đạt cả hai yếu tố trên, thì không thành cách.

Khi luận có thể quan sát thêm về Thần khí. Về cơ bản, Thần khí phải thuần và nội hàm bên trong. Nếu Thần khí tản mát, không súc tích, văn phong không có nét thanh nhã thì chưa đủ điều kiện "Thành cách". Cách thành hay phá không chỉ do Mệnh mà còn do Vận. Vận khí. 


(2) KimCa
Anh Ankhoa dùng Khí để đoán định, đó cũng là cách hay. Việc đoán Cung nào khí tụ, Cung nào khí tán cũng là điều quan trọng. Kim Ca không có dùng tán hay tụ Khí trong việc nhận định Tử vi. Bởi lẽ Tụ Tán đã nằm trong việc hợp hay phá cách rồi, ví dụ : Lộc tồn thổ Tụ khí nhưng bị Hóa kỵ thiên di xung là phá cách, vì lộc tồn đã bị tán khí bởi hóa kỵ.

Vấn đề của hung tinh đắc cách, mấu chốt để thành công nằm ở cát tinh đi cùng hợp cách. như Thiên hình đắc địa cung VCD cần Xương khúc để làm nổi bật tính hùng hồn của nó, Hỏa Linh cần Quan Phúc để chế tính nóng nảy của Hỏa Linh,Bạch hổ cần Thanh long đi cùng tạo thành Cách Long Hổ, chủ hiển đạt. về Không kiếp thực chất là rất khó đoán. Cũng không có sao chế nổi, chỉ có cách hướng nó theo ý tốt, dùng Lộc Kỵ cũng là hợp lý. Ví dụ một anh có tính sáng tạo, bản chất thay cũ đổi mới, không kiếp ở đây cũng mang tính phá hoại, nhưng được Hóa lộc ở Ngã cung thì sẽ sử dụng những tính chất đó của Không kiếp cho việc kiếm tiền, và có Hóa kỵ để thu tàng. 

(3) An Khoa
Quan điểm của anh về 2 chữ "Thành cách" nằm ở tính Vững bền của hệ thống.

Một hệ thống, cho dù là hệ thống các sao, hệ thống trong một công ty, hay hệ thống ở quy mô lớn như tài chính, thì yếu tố quan trọng nhất vẫn là Tính bền vững, tức làm sao không bị Phá vỡ khi gặp những rủi ro và biến động.

Khi tư duy như vậy ta sẽ hiểu rõ "thông minh" không phải lúc nào cũng hay, bởi "thông minh" tức biết nhiều thì thiên về Khí tán hơn tụ. Lực tán, đảm bảo cho những tư tưởng của ta được bay xa, chạm tới những vùng tri thức mới lạ. Lực tụ, lại đảm bảo cho ta có thể tích súc những tri thức "của ai đó" thành của mình và sử dụng trong cuộc sống. Do vậy, lực Tụ cần đủ bền vững trước lực Tán, có một tỉ lệ Tụ Tán hợp lý thì Hệ thống vừa phát triển lại phải không nguy cơ đổ vỡ trước rủi ro.

Note: Người VCD, Tuần Triệt Không vong, có thể rất thông minh (và thường vậy) nhưng không có nghĩa là sẽ xây dựng được một hệ thống hữu hình ngoài đời thực.

Đến một lúc nào đó ta sẽ hiểu rằng, mọi Quy luật đúng trong Tổ hợp tinh đẩu của Tử Vi có thể làm "kim chỉ nam" cho định hình mọi hệ thống ở ngoài xã hội. Lúc này Tử Vi mới thực sự là một đẳng cấp tư duy, mà nhiều nhà quản trị ước mơ đến.

Quy luật chỉ có 1, nhưng nó được "mô hình hoá" tại nhiều sân chơi khác nhau. Nếu nhìn mọi thứ là các quy luật và mô hình, thì việc Đúng ở sân chơi này có thể áp dụng sang sân chơi khác, với một chút thay đổi.

Nói tới Tụ Tán là nói tới Âm Dương. Nhưng Âm Dương lại không phải là sự phân định có nhiều hữu ích trong các mô hình có tính vận động, mà phải phân tới Ngũ Hành.

Các Tổ hợp tinh đẩu có thể tự do tương tác, Cát Hung tuỳ ý, nhưng điều quan trọng nhất luôn là:

1. Có 1 "thủ lĩnh" dẫn đầu
2. Dòng chảy của Khí cần tạo thành 1 vòng tuần hoàn có Đầu, có Cuối.

Khí chạy tử Thuỷ -> Mộc -> Hoả -> Thổ -> Kim. 
Rồi Kim lại sinh Thuỷ và bắt đầu vòng tuần hoàn mới.

Hy vọng sau này ta có một thế hệ các Tử Vi gia định hướng xã hội, chứ không chỉ đơn thuần là "chủ đề" cho những tay nhà báo vốn biết nhiều mà hiểu ít nữa.

Anyway, điều quan trọng nhất, cần nhấn mạnh lại là "tri thức phải biến thành của mình" và "sử dụng trong tay", chứ không để tôn thờ và ngắm mà không biết sử dụng.


(4) KimCa
Đồng ý với quan điểm của anh. Mệnh VCD bản chất Tán, cho nên thông minh, có tính sáng tạo, và dễ thay đổi trong cách suy nghỉ. Nhưng từ những sáng tạo, thông minh đó lập kế hoạch và bắt tay thực hiện thì lại là Tụ. Từ tính sáng tạo đến khi hoàn thành cái sáng tạo ra là rất xa. Cho nên người mệnh VCD tuy là biết nhưng cái biết đó khó làm được ngoài cuộc sống thực. Đó cũng là bản chất Tán Tụ. Một người VCD có ý tưởng kinh doanh nhưng khó thực hiện đuợc bởi tính tổ chức, kế hoạch rất kém. hơn nữa ý tưởng hay thay đổi, khó thành công được.

Lý Tán Khí và Tụ khí không phải chỉ ở Cung mệnh mà bao hàm cho 12 Cung. cung phúc cần Tụ khí chứ không tán, cho nên Không kiếp hỏa linh, song hao, khốc hư vốn là những sát bại tinh vào Phúc là rất kém phúc nếu không có Cát tinh đi cùng hợp cách chế giải. Ở Cung Tài cũng rất cần Khí tụ, đó là lý do Thiên Phủ, Vũ Khúc, Lộc Tồn ưa đóng Cung Tài hơn Cung Quan. Nếu làm việc trong một môi trường đòi hỏi đầu óc sáng tạo như nghiên cứu khoa học, đổi mới ở trung tâm nghiên cứu ở một tổ chức công ty, hay trong kinh doanh cần những ý tưởng kinh doanh mới để không bị lạc hậu thì Cung Quan lại rất cần những Sao Tán khí như Không kiếp, Hỏa Linh, Song hao, Thiên hư...ngược lại nếu một người làm công việc đòi hỏi tính kỷ luật cao, tổ chức tốt thì lại cần Khí Tụ. 

Đối với vấn đề tổ hợp tinh đẩu, mà ngay cả tổ hợp của hung cát tinh cũng rất cần Thủ lĩnh, thủ lĩnh gọi là Quân, các sao đi cùng mang tính bổ trợ là Thần. Quần thần khánh hội theo nghĩa rộng không chỉ là Tử phũ vũ tướng mà có thể là Mệnh Thiên Cơ, với Thiên Cơ làm Quân, các thần sát hỗ trợ đi cùng là Thần. Nếu đủ bộ thì có thể lập nên sự nghiệp. 



No comments:

Post a Comment