Tuesday, June 30, 2015

KimCa - Ý nghĩa Vòng Trường Sinh Cục

Chào mọi người.

Tử vi phải nói là một môn khó học, nếu không muốn nói là rất rất khó học. Bởi vì xét một cách khách quan, nguồn gốc của Tử vi đã không rõ ràng, đã thế lại còn chia thành nhiều Phái khác nhau, nhiều lý thuyết khác nhau, sách vở nhiều như rừng, cao thủ nhiều như mây. Sách viết loạn xì ngầu, người không biết thì cố tỏ ra mình biết để hơn người, người biết thì thò thò thụt thụt, cắt xén và truyền lại cho con em hay đệ tử chân truyền, người học thì thật giả lẫn lộn, cuối cùng vừa tốn tiền bạc mua sách vở, cho thầy tử vi, mất tiền vì thời gian đó đã lẽ phải dành để kiếm tiền, không những thế lại còn hao tâm tổn sức, đầu óc trên mây. 

Hôm nay KC được nghỉ làm, có điều kiện rãnh rỗi lật lại một chủ đề, chủ đề cũ nhưng vẫn còn rất mới. Nó khiến cho từ cao thủ, trung thủ đến thấp thủ phải lao vào một cuộc tranh luận không có hồi kết. Để rồi của ai người nấy dùng, tôi nghỉ nó đúng thì tôi sử dụng, còn anh sử dụng thế nào thì kệ anh. Người sau học thấy tín nhiệm ai thì theo quan điểm của người đó. Vòng Trường sinh cục (VTSC) là chủ đề được hóc búa, hóc búa ngay từ nguồn gốc của Cục Số, vấn đề Cục Số đã có đáp án, ở đây không đề cập đến vì nó liên quan đến base hệ thống phức tạp. Chỉ đề cập đến cách sử dụng VTSC sao cho chính xác. 

Ở TVLS chủ đề VTSC đã được nói đến rất nhiều, có nhiều phe phái khác nhau, chủ yếu được chia thành 2 phe chính. Phe theo VTSC đi thuận cho mọi tuổi, tiêu biểu là cụ HÀ Uyên, ông Thiên Kỷ Quý, ông Long Nguyên Quang. Phe theo VTSC đi thuận nghịch theo tuổi mà tiêu biểu là ông Vuivui. Còn có một phe khác vô thưởng vô phạt cho rằng VTSC chẳng có mấy ý nghĩa trong luận đoán, nó mờ nhạt, theo quan điểm này phải nói đến ông vDTT. Mới quay một vòng các vị Thượng khách diễn đàn đã thấy quan điểm khác xa nhau rồi, chưa kể đến lúc luận đoán còn khác nữa. Ai cũng có quan điểm và niềm tin cho rằng mình đúng. Ông vuivui dùng phương pháp Quy nạp theo base và sở ngộ của ông chứng minh VTSC theo Thái Thứ Lang là đúng. Một số nhà nghiên cứu khác cũng dùng phương pháp Quy nạp cho rằng VTSC thuận nghịch theo tuổi, và còn đưa ra những con số thống kê để Diễn dịch.

VTS được tính thuận cho mọi tuổi không phải không có lý, việc dùng VTS Ngũ hành Nạp âm để luận số đã được dùng cho phương pháp luận Tử Bình cổ, bằng cách luận NHNA của các Trụ Năm Tháng Ngày Giờ, dựa trên sinh khắc chế hóa và quan trọng hơn là Vòng trường sinh. Điều dễ nhận thấy là trong cách luận Tử bình cổ đã cho thấy VTS NHNA là đi thuận. Vấn đề còn lại ở đây là điểm chung và riêng của Cục Số và NHNA. Chính vì thế mới có nhiều thuyết.

Trong bài viết này Kim Ca theo phe VTSC có Thuận nghịch. Cục số là NHNA cung mệnh, đại biểu cho Nhân, điểm khác biệt của Cục Số và NHNA là Cục Số là đại diện của con người ( Nhân ), nó thuộc về ta vì nó ở cung mệnh, gắn liền với lúc con người sinh ra, nếu xem Cung mệnh là nơi mà ta sinh ra, thì Cục Số như là Sổ hộ khẩu, Chứng minh nhân dân của ta, đó là giấy chứng nhận sự có mặt của ta ở vị trí ta sinh ra. còn NHNA nói chung không đại diện cho ta, mà chỉ là yếu tố chung. Bản mệnh là NHNA của năm mà ta sinh ra, không thuộc về ta, Bản mệnh chỉ là suy từ thời gian (NHNA suy từ lục thập hoa giáp ) mà ta sinh ra. Mà thời gian thì chỉ có thuận mà không có nghịch, do vậy Bản mệnh là đi thuận. Còn NHNA thuộc về ta, là cái chứng minh sự hiện diện của phần Nhân, mà con người có Âm Dương Nam nữ, nên phải có thuận nghịch. Khi Kim Ca luận đến đây, có người đồng ý, có người không đồng ý. Nhưng tùy quan điểm của người đọc, Kim Ca sẽ theo phe VTSC đi thuận nghịch và cho phần luận phía dưới. 

Có rất nhiều lý giải xung quanh ý nghĩa của VTSC, điều đầu tiên phải nói đến cuốn sách kinh điển nhất của Tử vi để đầu giường, đó là Tử vi Đẩu Số Toàn Thư. Trong sách ít đề cập đến VTSC nhưng có 2 câu thơ làm nổi bật lên ý nghĩa của nó.

Sinh phùng bại địa, phát dã như hoa
Tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại

Chỉ có 2 câu thơ nhưng lại có nhiều cách lý giải, một số người cho rằng nếu Mệnh sinh ra ở vị trí Mộc dục của VTSC thì có phát cũng không bền, nếu Mệnh sinh ra ở vị trí Tuyệt của VTSC mà có Chính tinh sinh cho bản mệnh thì vẫn đạt được. Nhưng chưa phải đó là tất cả, một số người khác cho rằng, vị trí Tuyệt và Mộc dục thuộc VTS bản mệnh chứ không phải là VTS Cục. Theo quan điểm của Kim Ca, đã có cục số là đại diện cho phần Nhân thì hà tất còn dùng bản mệnh, vì khi đó nó rất thừa. Cho nên 2 câu trên ứng cho VTSC là rất có lý. Nhưng có nhà nghiên cứu Tử vi khác lại không đồng tình. Cho rằng câu tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại là khi mệnh ở vị trí tuyệt của VTS đến vận gặp Tràng Sinh là Tuyệt xứ phùng sinh, đây là quan điểm của ông Vương Đình Chi. Nếu tôi nhớ không lầm. Nhưng có vấn đề là nếu đã gặp Trường sinh ở vận trong 10 năm mà dùng từ bất bại thì e là không hợp lý chút nào. Cho nên kim Ca nhận định 2 câu trên ứng nghiện cho VTSC là khả dĩ nhất.

Nếu Cục Số là đại diện cho con người, thì VTSC chính là dòng thời gian con người trải qua. Hay nói cách khác, chính là Thời của con người qua từng giai đoạn, còn Cung vị chính là nơi mà ta đến. Do vậy Vòng TSC và Cung Vị hợp thành Không Thời Gian của con người. Khi luận số thì tất cả cho rằng Cung vị ( không gian ) quan trọng, nhưng đã bỏ qua mất phần Thời là VTSC. Như Ta sinh ra ở Bắc mà vào Nam thì đó là Cung Vị, nó làm thay đổi cuộc đời ta, Còn thời điểm ta vào nam lại là VTSC. Nói đúng hơn là Ta vào Nam lúc nào đã bao gồm Không Thời Gian rồi. VTSC áp dụng cho Đại vận 10 năm.

Trong Tử bình thì dùng lệnh tháng làm chuẩn từ đó mà suy ra vòng Đại vận theo lục thập hoa giáp, nó có cái gì đó giống với Cục Số ở chổ làm chuẩn cho Đại vận. Từ lệnh tháng mà theo Nam Nữ tuổi tác để định Thuận nghịch, cho đại vận, nếu cho rằng thời gian là không đi lùi và lập luận vòng Đại vận trong Tử bình đi thuận cho mọi tuổi nam nữ thì quá là lầm to. Tương tự như phần Cục Số và Bản mệnh vậy. 

Đến đậy chắc quý vị cũng nôm na hiểu và có thể không hiểu những điều Kim Ca viết. Phần Kim Ca viết đã mở ra con đường luận giải về Thời của con người, lúc thịnh lúc suy. Trong tử bình thì Thân có thể Vượng Suy theo Đại Vận từ lệnh tháng, Trong Tử vi mệnh có thể vượng suy theo Thời của VTSC. 

+++ Comments:


(1) Zodiac
Tôi có cùng suy nghĩ với KimCa về vai trò của vòng trường sinh như một dạng khí cho từng cung. Vòng trường sinh có 12 sao nhưng đến nay đa số đều xem đó là "sao thực sự" như các tinh đẩu khác. Nếu theo quan điểm này, vai trò của 12 sao quả thật không nổi bật gì. Các cách cục quan trọng trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư hầu như vắng bóng những sao này. Phú tử vi Việt thỉnh thoảng có nhưng đa phần xoay quanh những mảng nhỏ lẻ hoặc giả có liên quan đến tài quan thì vị trí của sao vòng trường sinh khá khiêm tốn.

Theo lập luận trên, vòng trường sinh có khả năng thiên về "trường" và "khí", vai trò tương tự Tứ Hóa và Tuần Triệt trên lá số. Cách hiểu này tương đồng với bên Tử Bình, vòng trường sinh để đánh giá lực lượng mạnh yếu của ngũ hành bát tự. Với Tử Vi, vấn đề phát sinh chính là sao vòng trường sinh Tử Vi ảnh hưởng đến thành phần nào của cung nó đóng: Bản thân cung (mệnh, tài, quan,...), ngũ hành cung, chính tinh hay toàn bộ tinh đẩu trong cung?

Tôi không nghĩ vòng trường sinh có thể ảnh hưởng mạnh đến mệnh với lý do chính thư nhắc đến Sinh Vượng Bại Tuyệt (tương hợp hơn với kiểu đánh giá ngũ hành nạp âm bản mệnh kinh điển) ngoài ra không đoái hoài đến các vị trí khác mặc dù tạm lấy lý luận bên Tử Bình, Quan Đới hoàn toàn khác biệt với Tử. Ngoài ra đánh giá tương tác Cục Mệnh đã có trực tiếp nên khó có lý nào từ Cục số quy ra thêm một loạt sao để tiếp tục đánh giá bản mệnh. Ảnh hưởng đến ngũ hành cung càng không có cơ sở. Riêng về mối quan hệ với tinh đẩu trong cung, Zodiac thiên về suy nghĩ này hơn vì nó góp phần giải thích được các câu phú Việt cũng như giải thích được luôn vai trò khiêm tốn của 12 sao này. Tôi tạm mượn hình tượng của cô LienHuong về đánh giá vòng trường sinh, đó là biểu hiện của "sức khỏe của sao", chỉ thay đổi chút ít là sức khỏe "thêm vào" cho sao. Ở mỗi cung vị, từng sao đã có lực riêng của mình sau khi tương tác với âm dương ngũ hành cung, biểu lộ ra bằng sự miếu hãm nên sự "thêm vào" này nhiều lúc bị mờ nhạt cũng có thể hiểu được.

Vòng trường sinh gây tranh cãi rất nhiều và như KimCa nói chia thành 3 trường phái. Đánh giá chủ quan về công lực và khả năng luận đoán xem như tương đương nhau. Mấu chốt nằm ở phái vòng trường sinh không đóng góp gì quan trọng. Phải chăng chính sự không quan trọng này giải thích được việc đi thuận, đi nghịch gì cũng vậy.

Nói là như thế nhưng tôi vẫn không cho rằng 12 sao của vòng trường sinh hoàn toàn vô dụng. Ắt phải có điều kiện nào đó để ảnh hưởng của nhóm sao này bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên trước khi tìm ra được quy luật, bản thân Zodiac cũng đành xem đó là 12 khúc gân gà, "bỏ thì thương, vương thì tội". Cũng may không phải riêng mình, mỗi lần đọc những bài luận giải của người khác, rất thường thấy 12 sao vòng trường sinh vô tình hay cố ý bị xem như tàng hình hoặc xuất hiện nhỏ bé trong kiểu gom sao bầy đàn hoặc có thành cách cục chỉ quanh quẩn ở "Thai Phục Vượng Tướng", "Đào Hoa mà ngộ sao Thai...". 

===> KimCa

hi Zodiac

nhớ Zodiac có lập 1 chủ đề liên quan đến Gấu, lúc đó tưởng Zodiac là vô Thường, nhưng sau mới thấy không phải.

Khi đọc bài viết thì Kim Ca thấy Zodiac vẫn chưa hiểu điều Kim Ca viết, Zodiac có lẽ giống với thatsat khi cho rằng Vòng Trường Sinh Cục ảnh hưởng lên nặng nhẹ của chính tinh, như Phá Quân có độ sáng là +3, khi được vị trí Đế Vượng VTSC thì độ sáng sẽ tăng lên +4, ngược lại gặp nơi Tử thì độ sáng còn +2...suy cho các Cung khác phân định năng nhẹ chính tinh...

Nhưng Kim Ca không có cách luận Trường hay Khí, cũng không có kiểu luận Hỷ Kỵ thần. Còn mệnh Cục tương hòa, sinh khắc là đang nói đến Vị, còn điều Kim Ca viết là VTSC là chữ Thời. Đó là điều khác biệt giữa so sánh Mệnh Cục và quy luật vòng TS. Mệnh Cục đã bao gồm 2 chữ Thời Vị. ví dụ : anh A sinh ra được Thời tốt, lại được sinh ra một nơi tốt. sinh ra ở Mỹ khác với sinh ra ở VN, đó là Mệnh Cục, sinh ra bên Mỹ lại được Thời. Đó là VTSC. Cho nên Vượng Suy VTSC đã nói lên con người lúc sinh ra gặp Thời hay không, tốt thì tốt đến mức nào, xấu thì xấu đến mức nào. Được Thời chứ không phải là gặp Thời

Quay lại ví dụ : sinh phùng bại địa, phát dã như hoa. Tuyệt xứ phùng sinh hoa nhi bất bại. Sinh ra không được Thời thì khí chất không đủ nên mệnh không quản được Tài Quan. 

Thời là Thời điểm, VTSC dùng để xem đại vận. Vượng suy của từng Đại vận. Gặp Thời tốt thì tăng ảnh hưởng tốt của cung đó, nếu Cung Vị có tổ hợp sao xấu thì được Thời mà không được Vị. Phân biệt sự khác nhau giữa Thời và Vị là có thể xem được Đại Vận đầy đủ. Đại vận bao gồm cả Thời và Vị, ví dụ : đại vận đến năm 35t, vừa được tổ hợp hợp cách tức là được Vị, nhưng đồng thời lại được Thời. 

Vì sao lại nói thế? Đại vận là dòng Thời của Cục, con người có thịnh có suy, nên mỗi người có sự thăng trầm giống như sự thịnh suy của VTSC. VTSC là dòng Thời của mỗi người, tức là trạng thái thịnh suy của mỗi người theo từng giai đoạn. Giống như Đại vận theo Nguyệt lệnh tử Bình vậy, sao Đại vận trong Tử Bình không đi thuận cả? mà lại có Thuận nghịch, bởi vị Đại vận không phải là thời gian theo quan điểm của Vật lý, mà Đại vận là trạng thái thịnh suy của mỗi người theo từng giai đoan. Cho nên có lúc Thân ta vượng, có lúc Thân ta suy. 

Có thể lấy ví dụ đơn giản là vào vận tam hợp mệnh cùng tổ hợp sao cả mà có người lên voi, có người xuống chó. Đó là do thời cả thôi. 

===> Zodiac
Thực ra tôi chỉ trình bày quan điểm của tôi về vòng trường sinh tác động lên lá số. Không có thiên về phản biện quan điểm của KimCa. Nếu có họa chăng là cảm thấy vòng trường sinh không tác động đến mệnh mạnh mẽ thôi.

Riêng về cái Thời như KimCa nói hoặc nói cho dễ hình dung là Thời Vận. Có lẽ Tử Vi không giải quyết được việc này. Lá số tử vi hay mở rộng ra là bát tự của mỗi người là yếu tố nội tại, từ đó tương tác ra bên ngoài để tạo thành cái gọi là cuộc đời. Yếu tố bên ngoài vì vậy nằm ngoài tầm của tử vi. Đây là câu nói thường nghe

"Vận con không bằng vận cha, vận nhà không bằng vận làng, vận làng không bằng vận châu, vận châu không bằng vận nuớc".

Nêu một ví dụ cụ thể, cùng lá số nhưng hai đứa trẻ sinh ra ở Việt Nam và Hoa Kỳ hoàn toàn có hướng phát triển khác nhau. Vòng trường sinh tương đồng nhưng rẽ ra hai số phận.

Do đó tôi nghi ngờ việc hành Cục tương sinh cho Mệnh tức là môi trường xung quanh thuận lợi cho đương số. Tôi lại hiểu theo hướng khác, Mệnh được sinh phù nên đủ lực để nắm bắt Thời Vận. Quay lại quan điểm của KimCa, Zodiac nghĩ mình có thể giả định những biến số đồng nhất để tìm ra kết luận nào đó bởi lẽ Tử Vi làm môn dự đoán dựa trên đa yếu tố. Lẽ tất nhiên, đã giả định thì hoàn toàn có thể sai lệch so với những lá số thực chứng.

Tình huống cụ thể: hai người cùng chỉ khác vòng trường sinh ngoài ra những thành phần khác khá tương đồng và quan trọng là cùng sinh ra ở một nơi với hoàn cảnh cũng như cơ hội xung quanh không sai biệt. Theo Zodiac thấy, những sao ở vòng trường sinh theo từng giai đoạn sẽ hỗ trợ (hoặc chiết giảm) lực cho các sao khác đương vận để tương tác với cái Thời bên ngoài. Hiểu như vậy liệu có thể dung hòa phần nào quan điểm của KimCa và Zodiac?

Tóm lại, tôi không nghĩ Tử Vi có thể ảnh hưởng được cái Thời khách quan xung quanh đương số. Nó chỉ phản ảnh lực lượng của lá số để tương tác với bên ngoài. Vòng trường sinh cũng cùng lý lẽ như vậy nhưng cần nhấn mạnh là sức ảnh hưởng của 12 sao này mạnh yếu thế nào vẫn là điều bí ẩn.

P/S: Zodiac không phải Vô Thường và chắc chắn không uyên bác đến mức như vậy. Zodiac chỉ xem Tử Vi như một môn học không khác gì học ngoại ngữ và tiếp cận nó theo quan điểm càng đơn giản càng tốt. Sự kiện lần trước là giải quyết nhân quả từ lâu nên bây giờ xem như chấm dứt. 

===> KimCa
Kim Ca đang bàn về chữ Thời trong Tử vi, và mượn Tử Bình để mô tả cho dễ hiểu. Chứ không có nêu quan điểm về Thời ngoài đời, vì ngoài đời vốn rất phức tạp. Thời ngoài đời là thời gian theo quan điểm vật lý, còn Thời Kim Ca nói đến là Thời theo VTSC. 

cụ Hà Uyên cho rằng mệnh TPVT cục Thủy khác với mệnh TPVT cục Thổ, mặc dù Thủy Thổ cùng Trường sinh ở Thân, nên cùng tuổi Âm Dương thì sẽ cùng chiều và cùng 12 trạng thái của VTSC. Cụ nói vậy cho thấy Cụ quan tâm đến tương tác của Chính tinh và Cục. Và tất nhiên là có sự tương tác giữa VTSC và Chính tinh rồi.

Đễ dễ hiểu hơn, Kim Ca lấy ví dụ : Mệnh Thủy đến cung Dần có nạp âm là Thổ , tức là mệnh bị khắc, hiểu nôm nay là mất địa lợi. nhưng lại được Trường Sinh cứu cánh, tức là gặp Thời Trường sinh. Nên có thể phát triển tốt dù có khó khăn đi nữa. Đó là được Thời vậy. Phần nhân chính là tổ hợp Chính tinh hợp hay phá cách, phần thiên là Thiên Can đại vận, phần này có vẻ giống Tứ Hóa Phái hơn. Có thể nêu đơn giản về Đại vận là Thiên = Thiên Can phi tứ hoá, Địa = NHNA cung Đại vận, Nhân = VTSC + hợp phá cách tổ hợp chính tinh. 

Nói đến đây Zodiac thấy giống quan điểm của mình chưa? 


(2) Quach Ngọc Bội
Zodiac, on 19/06/2015 - 09:58, said:
Zodiac cố tình chọn những câu Hán Việt để hy vọng hạn chế tam sao thất bản hay có ở phú Nôm.

1. Mã ngộ Trường Sinh, chung thân bôn tẩu

Câu phú này chính là sự tam sao thất bản.

- Mã ngộ Tràng Sinh, thanh vân đắc lộ.

- Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu.

Dĩ nhiên có những trường hợp phụ mà "Mã ngộ Tràng Sinh" vẫn bị bôn tẩu chứ chẳng nhẹ bước thang mây, và cũng có những trường hợp phụ mà "Mã ngộ Không Vong" vẫn chẳng hề bị lang bạt bôn tẩu gì cả. Nhưng những trường hợp này không phải tính chất điển hình đặc trưng để để có thể viết thành phú. 

Mã gặp cả Tràng Sinh và Không Vong thì vẫn nổi trội là tính chất bôn tẩu vì Tràng Sinh không phải là vị trí có sức đề kháng hay tạo thành phản cách tốt đẹp khi gặp phải Không Vong. Trong các "sao" thuộc vòng Tràng Sinh chỉ có vị trí sao Thai là là có tính chất đó, thí dụ

Tử Vi hay Thiên Phủ gặp Không Vong thì hỏng, nhưng có thêm sao Thai đồng cung thì được cứu trợ phản chuyển thành tốt đẹp.

Nếu nhìn sự cứu giải của Thanh Long đối với Thiên Phủ ngộ Không Vong thì cũng thấy Thanh Long như vị trí của Thai, khi biểu diễn vòng Bác Sĩ qua 12 trạng thái vòng Tràng Sinh.

Vòng Thái Tuế không thể biểu diễn qua 12 trạng thái vòng Tràng Sinh cho nên không xác định được vị trí sao hữu dụng với Không Vong. Nhưng theo các an các Thần Sát bằng Địa Chi tuổi thì có 4 tuổi nghiễm nhiên được miễn nhiễm với trường hợp Mã ngộ Không Vong, đó là các tuổi Dần Thân Tị Hợi (riêng Thần Sát này không thấy các sách Tử Vi an vào lá số, nhưng có nhắc đến trong TVĐS Toàn Thư và Toàn Tập:Phàm mã hữu lan hữu an tắc vi cát, tắc hữu đình chỉ, vô lan giả tắc vi tán mã.)

Ngoài những tính chất của các "sao" của vòng Tràng Sinh để phối hợp các tinh đẩu khác mà đoán sự kiện họa phúc, đoán các yếu tố âm phần tại cung Phúc Đức, thì 12 trạng thái (QNB thích gọi chúng là "trạng thái" hơn là gọi bằng "sao") của vòng Tràng Sinh mô tả rất rõ nét trạng thái Ngũ Hành của Chính Tinh tại mỗi cung, thông qua đó cứ theo quy luật Vượng Tướng Hưu Tù mà xác định, từ đó phân định rõ được độ mạnh yếu của Cách Cục.


Đơn giản là như thế này:

Số của Cục thì dùng để an các Chính Tinh.
Hành của Cục thì dùng để an 12 trạng thái vòng Tràng Sinh.

Như vậy thì dễ dàng nhận thấy mỗi một trạng thái Sinh Vượng Tử Tuyệt,... trong 12 trạng thái của vòng Tràng Sinh đều mô tả về trạng thái Ngũ Hành của Chính Tinh đóng cùng nó.

Thí dụ như Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần là Nhâm Dần thì tức là Kim 4 Cục. Nếu như người này mà có Thất Sát thủ Mệnh thì thử hỏi độ mạnh yếu của Cách Cục "Thất Sát triều Đẩu" (TSTĐ) của người này sẽ mạnh yếu như thế nào so với những người có cùng Cách Cục TSTĐ nhưng tuổi khác cục khác?
Bởi vì Thất Sát là Kim mà rơi vào vị trí Kim bị Tuyệt thì dĩ nhiên là Cách Cục TSTĐ của người tuổi Đinh Nhâm sẽ kém hơn tất cả những tuổi khác có cùng Cách Cục ấy.
Lại thí dụ Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần (Kim 4 Cục), nhưng có Vũ Tướng thủ Mệnh, vậy thì trạng thái của Vũ Khúc là Kim Tuyệt, mà khi Kim bị Tuyệt thì Thủy của Thiên Tướng ở đó sẽ tương ứng với trạng thái rất yếu về ngũ hành, coi như bị Hưu/Tù.

Các thế đứng khác cũng tương tự theo đó mà suy luận ra.
Phương pháp xét ngũ hành này được các cụ xưa áp dụng rất nhiều, nếu ai đọc hết các bài viết trong bộ Tạp Chí KHHB trước 75' thì sẽ thấy có rất nhiều bài luận áp dụng nó. 

(3) Alex Phong
QuachNgocBoi, on 19/06/2015 - 16:24, said:
Thí dụ như Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần là Nhâm Dần thì tức là Kim 4 Cục. Nếu như người này mà có Thất Sát thủ Mệnh thì thử hỏi độ mạnh yếu của Cách Cục "Thất Sát triều Đẩu" (TSTĐ) của người này sẽ mạnh yếu như thế nào so với những người có cùng Cách Cục TSTĐ nhưng tuổi khác cục khác?
Bởi vì Thất Sát là Kim mà rơi vào vị trí Kim bị Tuyệt thì dĩ nhiên là Cách Cục TSTĐ của người tuổi Đinh Nhâm sẽ kém hơn tất cả những tuổi khác có cùng Cách Cục ấy.
Lại thí dụ Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần (Kim 4 Cục), nhưng có Vũ Tướng thủ Mệnh, vậy thì trạng thái của Vũ Khúc là Kim Tuyệt, mà khi Kim bị Tuyệt thì Thủy của Thiên Tướng ở đó sẽ tương ứng với trạng thái rất yếu về ngũ hành, coi như bị Hưu/Tù.

Tại dần thì kim luôn luôn tuyệt, mộc luôn lâm quan, thủy thổ luôn bệnh, hỏa luôn trường sinh. Nếu luận như trên thì bất kỳ cục gì Vũ Tướng tại dần cũng luôn có Kim Tuyệt Thủy Bệnh. Cho nên, có lẽ đó không phải cách dùng cục chính xác.

Miếu hãm của chính tinh không phụ thuộc vào cục. Cho nên, vòng trường sinh của cục chỉ cho biết trạng thái mạnh yếu của năng lượng lá số. Tại vị trí Tuyệt coi như bất hoạt, tại vị trí mộ coi như bị ngưng trệ, tại đế vượng năng lượng cao nhất.

Năng lượng này chính là khả năng hoạt động của chính cá nhân đó, là yếu tố Nhân trong tam tài. Tại vị trí Tuyệt, cá nhân đó chỉ còn trông chờ vào Trời Đất. Tại vị trí Mộ, họ như bị cầm tù. Tại ví trí Vượng, họ hoạt động năng nổ nhất. 

===> QuachNgocBoi
Không phải. Vì đối với người Nữ tuổi Đinh Nhâm lập Mệnh tại Dần lại khác với người nam, khi đó Kim của Thất Sát hay Vũ Khúc rất mạnh.

Ý nghĩa chính của phương pháp xét Ngũ Hành mà tôi trình bày bên trên là dùng để: so sánh sự mạnh yếu trên cùng một Cách Cục giữa các lá số khác nhau (về tuổi hoặc về giới tính), chứ không phải là để xét xem trên 1 lá số thì nó mạnh hay yếu (10 điểm hay 1 điểm).

Cũng nói rõ luôn rằng phương pháp dùng Ngũ Hành không phải là phương pháp duy nhất để so sánh sự mạnh yếu giữa các lá số có cùng 1 Cách Cục. Nguời ta có thể dùng Tinh Đẩu để xét, nhưng mà sự định lượng bằng tính chất các Tinh Đẩu là kém rõ ràng mạch lạc hơn dùng Ngũ Hành trong việc này. 

(4) QuachNgocBoi
View PostAlexPhong, on 21/06/2015 - 11:35, said:
Khẳng định này phải đi kèm khẳng định "vòng Trường Sinh luôn đi theo chiều đại vận", vì áp dụng vòng trường sinh cố định vào thì các lá số không khác gì nhau.

Đúng như vậy, bởi vì đây là chủ đề "Ý nghĩa Vòng Tràng Sinh Cục" cho nên không cần thiết phải khẳng định lại rằng "vòng Tràng Sinh luôn đi theo chiều đại vận" tức là Dương nam Âm nữ thì đi thuận và Âm nam Dương nữ thì đi nghịch.

Còn Vòng Tràng Sinh cố định (chỉ có một chiều thuận) là nói về Vòng Tràng Sinh của Bản Mệnh.
Các quan điểm an Vòng Tràng Sinh Cục luôn theo một chiều thuận đều là các quan điểm không chính thống nên chúng ta không cần bàn đến ở đây.

View PostAlexPhong, on 21/06/2015 - 11:35, said:
Giữa các tuổi khác nhau thì có rất nhiều phụ tinh an bởi can và chi năm cũng khác nhau đi cùng. Có thể dựa vào các phụ tinh này để đánh giá mạnh yếu của cách cục.

Như trên tôi đã nói, cách dùng Ngũ Hành không phải là phương pháp duy nhất, mà có thể sử dụng Tinh Đẩu, để so sánh độ mạnh yếu của cùng Cách Cục trên các lá số khác nhau.

Nhưng trong khuôn việc so sánh này thì phương pháp dùng Ngũ Hành là đạt được sự định lượng rõ ràng mạch lạc hơn, bất cứ ai dù mới học cũng có thể áp dụng được dễ dàng vì theo Ngũ Hành đã phân chia thành các mức độcâo thấp Vượng - Tướng - Hưu - Tù - Tử rất cụ thể.
Còn nếu dùng phương pháp định lượng bằng tính chất các Tinh Đẩu thì rất mơ hồ, đòi hỏi sự nhạy bén và kinh nghiệm, người mới học không thể áp dụng được.
Thí dụ cùng là Cách Cục "Thất Sát triều đẩu", những người thiếu kinh nghiệm làm sao so sánh được sự mức độ giữa lá số có Cách Cục này nằm trong tam hợp Dương-Tử-Phúc là mạnh hơn hay yếu hơn lá số có Cách Cục đó nhưng nằm trong tam hợp Âm-Long-Trực. Hoặc thí dụ, làm sao phân biệt được sự mạnh yếu giữa các lá số có cùng một Cách cục mà nằm trong thế Thanh Long - Phi Liêm - Phục Binh với thế Tiểu Hao - Hỉ Thần - Quan Phủ.
Đa số những người thiếu kinh nghiệm chỉ có thể phân biệt sự mạnh yếu các lá số tuổi/giới tính khi rơi vào trường hợp cùng Cách Cục mà có hội hay không hội Thái Tuế, Lộc Tồn.

View PostAlexPhong, on 21/06/2015 - 11:35, said:
Vòng Trường Sinh vốn không phải là lựa chọn bất kỳ mà bị phụ thuộc vào năm sinh.Ví dụ: Năm Giáp Tý, cung dần mão là Bính Dần Đinh Mão thuộc hỏa, tại dần Hỏa Trường Sinh nhưng tại mão là Mộc Dục. Thìn là Suy, Tỵ là Bệnh của Mộc. Tại ngọ mùi là thai dưỡng của Thổ, tại thân dậu là Lâm Quan đế vượng của Kim. Tuất hợi là mộ tuyệt của hỏa. Hợi Tý là Lâm Quan đế vượng của Thủy. Như vậy, trong từng năm sinh đã ẩn tàng sự mạnh yếu của các cung (chính là tháng) khác nhau trước khi có chính tinh. Cho nên, vòng Trường Sinh Cục đánh giá mạnh yếu của 12 cung trong năm đó thì đúng hơn.

Đánh giá sự mạnh yếu của 12 cung Địa Chi (từ Tý đến Hợi) thì cần căn cứ vào các vị trí của Vòng Tràng Sinh an theo Bản Mệnh vì nó là theo Ngũ Hành Nạp Âm với Can-Chi của Năm sinh.

Đánh giá sự mạnh yếu của 12 cung Chức (chức năng, nhân sự, Mệnh Phụ Phúc Điền...) thì mới căn cứ trên các vị trí của Vòng Tràng Sinh Cục, vì nó là theo Ngũ Hành Nạp Âm với Can-Chi của Cung Mệnh. 




KimCa - Tuần Triệt và Cung Mệnh

Chào mọi người.

Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh.

Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần

Mệnh VCD đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD, hãy lấy ví dụ : Một người khỏe mạnh, cường tráng ( Chủ cường ) thì không sợ phong ba bão gió của xã hội ( Khách ), đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu ( Chủ yếu ) vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết ( Khách mạnh hơn Chủ ), cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động. 

Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội.

Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa ( kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ ) là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau.

Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ : người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém.

Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương. 

Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm.

Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách...từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu...( Điền Thật ). Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc.

Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung ( không phải Đối Cung ). Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng ), nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý ( tính Dương )

ps : nếu có thời gian Kim Ca sẽ viết về Tuần Triệt tương tác lên Cục số và Vòng Trường sinh cục, vốn là một phần của chủ đề 'ý nghĩa vòng trường sinh' nhưng chưa viết được. 


+++ Comments:

(1) An Khoa
Cung VCD => Khí tán không tụ, khó thành hình, lập trường không vững.

Cần 2 điều kiện :

1. Bản cung có Trung tinh miếu vượng, có khả năng Tụ khí như Lộc Tồn, Kình Đà. 

Hoả Linh không hợp vì là Đoản thọ tinh, khí hành Hoả thiên về thăng tán, càng bất lợi.

Kiếp Không cũng loại, sức tán khí của Kiếp Không còn mạnh hơn Hoả Linh nhiều vì nó đánh thẳng vào Nguyên khí, Hoả tiên thiên.

Tả Hữu Khôi Việt vốn là trợ tinh, có cát lành, nhưng không có tính Tụ khí. Xương Khúc văn tinh cũng vậy.

Lộc Tồn tuy không hợp lắm, vì Thổ tinh thiên về trợ giúp chứ không có lập trường mạnh, nhưng Thổ của Lộc Tồn cũng là tụ khí, cho nên vẫn hợp.

Kình Đà Bạch Hổ ... về cơ bản các Hung sát tinh hành Kim ở đất miếu vượng, khí Kim được tích súc ẩn hàm bên trong đều tạo ra một thế cục có Chính khí tại bản cung và hấp thụ được khí từ nơi khác.

2. Tam phương tứ chính cần có Không vong, hoặc đa Cát thiểu Hung.

Chính khí tại Bản cung cần được giữ, tam phương cần có không vong để kìm chế sức hút khí của các cung. Sát hung tinh có xu hướng lấy cắp khí mạnh hơn Cát tinh, Cát tinh về cơ bản có xu hướng hỗ trợ hơn lôi kéo. Cho nên đa Cát tinh là hợp.

Lưu ý, các "phản cách" có quy luật khá nghiêm ngặt, chỉ cần một điểm sai sẽ làm cả hệ thống sai. Cho nên nếu không đạt cả hai yếu tố trên, thì không thành cách.

Khi luận có thể quan sát thêm về Thần khí. Về cơ bản, Thần khí phải thuần và nội hàm bên trong. Nếu Thần khí tản mát, không súc tích, văn phong không có nét thanh nhã thì chưa đủ điều kiện "Thành cách". Cách thành hay phá không chỉ do Mệnh mà còn do Vận. Vận khí. 


(2) KimCa
Anh Ankhoa dùng Khí để đoán định, đó cũng là cách hay. Việc đoán Cung nào khí tụ, Cung nào khí tán cũng là điều quan trọng. Kim Ca không có dùng tán hay tụ Khí trong việc nhận định Tử vi. Bởi lẽ Tụ Tán đã nằm trong việc hợp hay phá cách rồi, ví dụ : Lộc tồn thổ Tụ khí nhưng bị Hóa kỵ thiên di xung là phá cách, vì lộc tồn đã bị tán khí bởi hóa kỵ.

Vấn đề của hung tinh đắc cách, mấu chốt để thành công nằm ở cát tinh đi cùng hợp cách. như Thiên hình đắc địa cung VCD cần Xương khúc để làm nổi bật tính hùng hồn của nó, Hỏa Linh cần Quan Phúc để chế tính nóng nảy của Hỏa Linh,Bạch hổ cần Thanh long đi cùng tạo thành Cách Long Hổ, chủ hiển đạt. về Không kiếp thực chất là rất khó đoán. Cũng không có sao chế nổi, chỉ có cách hướng nó theo ý tốt, dùng Lộc Kỵ cũng là hợp lý. Ví dụ một anh có tính sáng tạo, bản chất thay cũ đổi mới, không kiếp ở đây cũng mang tính phá hoại, nhưng được Hóa lộc ở Ngã cung thì sẽ sử dụng những tính chất đó của Không kiếp cho việc kiếm tiền, và có Hóa kỵ để thu tàng. 

(3) An Khoa
Quan điểm của anh về 2 chữ "Thành cách" nằm ở tính Vững bền của hệ thống.

Một hệ thống, cho dù là hệ thống các sao, hệ thống trong một công ty, hay hệ thống ở quy mô lớn như tài chính, thì yếu tố quan trọng nhất vẫn là Tính bền vững, tức làm sao không bị Phá vỡ khi gặp những rủi ro và biến động.

Khi tư duy như vậy ta sẽ hiểu rõ "thông minh" không phải lúc nào cũng hay, bởi "thông minh" tức biết nhiều thì thiên về Khí tán hơn tụ. Lực tán, đảm bảo cho những tư tưởng của ta được bay xa, chạm tới những vùng tri thức mới lạ. Lực tụ, lại đảm bảo cho ta có thể tích súc những tri thức "của ai đó" thành của mình và sử dụng trong cuộc sống. Do vậy, lực Tụ cần đủ bền vững trước lực Tán, có một tỉ lệ Tụ Tán hợp lý thì Hệ thống vừa phát triển lại phải không nguy cơ đổ vỡ trước rủi ro.

Note: Người VCD, Tuần Triệt Không vong, có thể rất thông minh (và thường vậy) nhưng không có nghĩa là sẽ xây dựng được một hệ thống hữu hình ngoài đời thực.

Đến một lúc nào đó ta sẽ hiểu rằng, mọi Quy luật đúng trong Tổ hợp tinh đẩu của Tử Vi có thể làm "kim chỉ nam" cho định hình mọi hệ thống ở ngoài xã hội. Lúc này Tử Vi mới thực sự là một đẳng cấp tư duy, mà nhiều nhà quản trị ước mơ đến.

Quy luật chỉ có 1, nhưng nó được "mô hình hoá" tại nhiều sân chơi khác nhau. Nếu nhìn mọi thứ là các quy luật và mô hình, thì việc Đúng ở sân chơi này có thể áp dụng sang sân chơi khác, với một chút thay đổi.

Nói tới Tụ Tán là nói tới Âm Dương. Nhưng Âm Dương lại không phải là sự phân định có nhiều hữu ích trong các mô hình có tính vận động, mà phải phân tới Ngũ Hành.

Các Tổ hợp tinh đẩu có thể tự do tương tác, Cát Hung tuỳ ý, nhưng điều quan trọng nhất luôn là:

1. Có 1 "thủ lĩnh" dẫn đầu
2. Dòng chảy của Khí cần tạo thành 1 vòng tuần hoàn có Đầu, có Cuối.

Khí chạy tử Thuỷ -> Mộc -> Hoả -> Thổ -> Kim. 
Rồi Kim lại sinh Thuỷ và bắt đầu vòng tuần hoàn mới.

Hy vọng sau này ta có một thế hệ các Tử Vi gia định hướng xã hội, chứ không chỉ đơn thuần là "chủ đề" cho những tay nhà báo vốn biết nhiều mà hiểu ít nữa.

Anyway, điều quan trọng nhất, cần nhấn mạnh lại là "tri thức phải biến thành của mình" và "sử dụng trong tay", chứ không để tôn thờ và ngắm mà không biết sử dụng.


(4) KimCa
Đồng ý với quan điểm của anh. Mệnh VCD bản chất Tán, cho nên thông minh, có tính sáng tạo, và dễ thay đổi trong cách suy nghỉ. Nhưng từ những sáng tạo, thông minh đó lập kế hoạch và bắt tay thực hiện thì lại là Tụ. Từ tính sáng tạo đến khi hoàn thành cái sáng tạo ra là rất xa. Cho nên người mệnh VCD tuy là biết nhưng cái biết đó khó làm được ngoài cuộc sống thực. Đó cũng là bản chất Tán Tụ. Một người VCD có ý tưởng kinh doanh nhưng khó thực hiện đuợc bởi tính tổ chức, kế hoạch rất kém. hơn nữa ý tưởng hay thay đổi, khó thành công được.

Lý Tán Khí và Tụ khí không phải chỉ ở Cung mệnh mà bao hàm cho 12 Cung. cung phúc cần Tụ khí chứ không tán, cho nên Không kiếp hỏa linh, song hao, khốc hư vốn là những sát bại tinh vào Phúc là rất kém phúc nếu không có Cát tinh đi cùng hợp cách chế giải. Ở Cung Tài cũng rất cần Khí tụ, đó là lý do Thiên Phủ, Vũ Khúc, Lộc Tồn ưa đóng Cung Tài hơn Cung Quan. Nếu làm việc trong một môi trường đòi hỏi đầu óc sáng tạo như nghiên cứu khoa học, đổi mới ở trung tâm nghiên cứu ở một tổ chức công ty, hay trong kinh doanh cần những ý tưởng kinh doanh mới để không bị lạc hậu thì Cung Quan lại rất cần những Sao Tán khí như Không kiếp, Hỏa Linh, Song hao, Thiên hư...ngược lại nếu một người làm công việc đòi hỏi tính kỷ luật cao, tổ chức tốt thì lại cần Khí Tụ. 

Đối với vấn đề tổ hợp tinh đẩu, mà ngay cả tổ hợp của hung cát tinh cũng rất cần Thủ lĩnh, thủ lĩnh gọi là Quân, các sao đi cùng mang tính bổ trợ là Thần. Quần thần khánh hội theo nghĩa rộng không chỉ là Tử phũ vũ tướng mà có thể là Mệnh Thiên Cơ, với Thiên Cơ làm Quân, các thần sát hỗ trợ đi cùng là Thần. Nếu đủ bộ thì có thể lập nên sự nghiệp. 



VoThuong - Tứ linh và Lộc Mã

Ngay câu đầu Thái vi phú Trần Đoàn đã viết:

Lộc Phùng xung phá cát xứ tàng hung
Mã lạc không vong chung thân bôn tẩu.

Lộc Mã có gì mà khiến Trần Đoàn đặt lên ngay đầu tiên như thế? Bỏ qua cả Đế vị (Tử vi). Hay người đời nói rằng:
Lộc Mã giao trì chúng nhân sủng ái
Kiếp Không độc thủ thị kỷ phi nhân?

Xin thưa, Lộc Mã có một ý nghĩa quan trọng lắm lắm. Mà khi khán số, chúng ta không nên bỏ qua chúng. Dụng được chiêu Lộc Mã thì nhiều. Nhưng dụng lúc đúng, lúc sai thì càng nhiều vô kể. Nay xin được chia sẻ bằng hiểu biết thấp kém của Vô Thường so với kho kiến thức uyên thâm của nhân loại qua loạt bài Lộc mã giao trì – Tứ Linh Chính vị. Hi vọng phần nào giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về chúng.

Lộc tồn – Tuyệt chiêu của vòng Tràng sinh thiên can:

Giáp: Dần/ Ất: Mão/ Bính: Tỵ/ Đinh: Ngọ/ Mậu: Tỵ/ Kỷ: Ngọ/ Canh: Thân/ Tân: Dậu/ Nhâm: Hợi/Quý: Tý.
Lộc tồn rơi vào vị trí Lâm Quan của hàng Thiên Can. (Ví dụ can Giáp khởi tràng sinh tại Hơi tiến đến Dần là Lâm quan/ Can Ất khởi tràng sinh tại Ngọ đến Mão là Lâm quan – Tràng sinh cho can Dương thì thuận, can Âm thì nghịch).
Để ý lên cao hơn một chút sẽ thấy: Những thiên can hành Dương Lộc Đắc rơi vào cung Dương những Thiên can Âm Lộc đắc cung Âm đều tốt hơn các can còn lại.
Ví dụ:
Can Giáp (Dương) Lộc tọa Dần (Dương) => Đúng vị
Can Ất (Âm) Lộc tọa Mão (Âm) => Đúng vị
Bính (Dương) Lộc tọa Tỵ (Âm) => Lêch vị
Đinh (Âm) Lộc tọa ngọ (Dương) => Lệch vị.
Vì sao Lệch lại không tốt bằng Đúng vị. Vì chỉ có đúng vị mới được hưởng chính cách: Lộc Mã Giao Trì.
Hay nói cách khác: Lộc Mã giao trì là đặc sản của những tuổi ăn được Lộc đúng vị như đã trình bày bên trên. Chỉ có 4 thiên can: Giáp Ất Canh Tân (Lộc cư đúng vi) là có tuyệt chiêu này.

Thiên Mã – Tuyệt chiêu của vòng Tràng sinh cục

Thiên Mã được an theo tam hợp cục.
Thân Tý Thìn: Thiên mã an Dần (Tam hợp Thủy Tràng sinh khởi Thân tới Dần là Bệnh)
Tỵ Dậu Sửu: Thiên mã an Hợi (Tam hợp Kim Tràng sinh khởi Tỵ tới Hợi là Bệnh)
Hợi Mão Mùi: Thiên mã an Tỵ (Tam hợp Mộc Tràng sinh khởi Hợi tới Tỵ là Bệnh)
Dần Ngọ Tuất: Thiên mã an Thân. (Tam hợp Hỏa. Tràng sinh khởi Dần tới Thân là Bệnh)
Tràng sinh – Bệnh và Lâm Quan – Tuyệt luôn là Tứ đỉnh của 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi.
Vậy Thiên Mã chính là điểm phân giữa hai cánh cửa Sinh-Diệt của vòng tràng sinh.
Sinh: Tràng sinh – Mộc Dục – Quan Đới – Lâm Quan – Đế Vượng – Suy
Diệt: Bệnh – Tử - Mộ - Tuyệt – Thai – Dưỡng.

Tràng Sinh và Bệnh cũng như Thất Sát và Thiên Phủ. Vĩnh viễn đối xung trên mọi đồ hình. Vị trí Bệnh (Thiên mã) đại diện cho một bước chuyển. Tốt xấu tùy theo bản chất, nhưng bản chất của bước chuyển là động. Cuộc đời khi bước qua cung vị Thiên mã bao giờ cũng là Động.
Do là điểm cực động nên rất cần chính khí Lâm Quan của Lộc Tồn.

Từ ngàn xưa tới nay, thành công nào trong cuộc đời mà không phải vất vả, và có cái giá phải trả. Muốn thành công trong thời loạn thế (vị trí thiên mã) Rất cần Thiên khí (Lộc Tồn) ban cho sự may mắn minh mẫn (Bác sỹ) và chính Ấn (Thành danh – Quốc Ấn vĩnh viễn tam hợp với Lộc Tồn).
Có sự may mắn, có khả năng (Lộc Tồn) lại cũng rất cần cơ hội (thiên mã) để mà Loạn thế xuất anh hùng
Lộc Mã giao trì – Cuộc chơi của Tang Tuế Điếu.

Đầu tiên, xin được khẳng định rằng: Tang – Tuế - Điếu siêu mạnh. Mạnh cấp siêu cường không kém gì Tuế - Phù – Hổ. Vì khi nó đắc Lộc Mã giao trì, thì quả thật khó mà cân đong đo đếm. Khó thôi, nhưng phải cân được thì mới tài.

Xin được tiếp tục về Lộc mã.

Do cách an Thiên mã vĩnh viễn rơi vào vị trí Bệnh của vòng tràng sinh tam hợp cục. Mà bộ Tuế phù hổ thì luôn đi vào thế Sinh Vượng Mộ của tam hợp cục.
Xin viết rõ cho bạn đọc dễ hiểu đoạn này:
Ví dụ: Tuổi Tỵ/Dậu/Sửu (Tam Hợp Kim) – Bộ Tuế - Phù – Hổ sẽ luôn an ở Tỵ/Dậu/Sửu. Thiên Mã tọa Hợi. Nên vĩnh viễn Thuộc về vòng tam hợp đối kháng với nó là: Hợi/Mão/Mùi (Tam hợp Mộc) – Tang – Tuế - Điếu.
Thái Tuế - Tuế Phá
Bạch Hổ - Tang Môn
Quan Phù – Điếu Khách.
Đó là thứ vĩnh viễn đối xung (Đối địch nhau) theo vòng Thái Tuế..
Do vậy, hưởng được đặc sản Lộc Mã giao trì (Theo tam hợp) hoàn toàn chỉ có các tuổi Lộc cư đúng vị (như đã nói tại bài trên) và bộ Tang – Tuế - Điếu mà thôi.

Nếu như nói theo huyền thoại Thiên Lương: Tuế - Phù – Hổ là biểu tượng cho chính nhân quân tử. (Tứ Linh chính vị - sẽ được phân tích trong loạt bài tiếp theo)
Thì Vô Thường tôi cho rằng: Tang – Tuế - Điếu là biểu tượng của anh hùng xuất trong loạn thế.

Xin được lưu ý thêm về tuyệt chiêu kích: 6 cung cùng Âm vị với tuổi âm và 6 cung cùng Dương vị với tuổi dương tôi đã trình bày qua bài: Âm – Dương tác đế vị.
Tuế - Phù – Hổ/ Tang – Tuế - Điếu luôn cùng tọa 6 cung âm cho các tuổi Âm và 6 cung Dương cho các tuổi Dương.
Như vậy, khi mệnh bạn tọa Tuế Phù Hổ mà cung thân rơi vào Tang Tuế Điếu (Phúc Di Thê) – Nghĩa là bạn có cơ hội ôm được các cách kinh điển của cả 2 bộ (Cũng giống như mệnh Tử Vũ Liêm thì Phúc di thê luôn là Sát Phá Tham và ngược lại – Khi Thân an Phúc Di Thê nghĩa là bạn có khả năng được hưởng trọn vẹn sự cân bằng của 2 vòng Nam – Bắc đẩu). Và không những thế, cách cục mệnh thân bạn sẽ kích hoạt hoàn toàn 6 cung cùng âm vị - hay 6 cung cùng Dương vị.
Đây chính là một trong những chiêu thuật dụng khí tối thượng. Thuần Âm hoặc thuần Dương chi khí.
Kim cương càng Tinh thuần càng quý, vàng càng tinh thuần càng quý. Nước càng tinh thuần càng trong.
Và đới để không càng “Không” càng mạnh.
Nên Dương càng thuần càng thanh cao. Âm càng thuần càng nhu thuận.

Quay lại với Lộc mã giao Trì: Lộc Mã giao trì có thể tăng độ mạnh khi có thêm các cách như: Song Lộc/ Mã Khốc Khách…

Vậy Trần Đoàn đã nhắc nhở điều gì cần phải chú ý cho anh hùng cách này?
Lộc phùng xung phá cát xứ tàng hung.
Lộc sợ nhất là Không vong và bị nhiễm đới Kỵ.
Lật ngược lại một câu phú khác là: Quan cung tối hỷ đào hồng. Thiên Di tối kỵ Kiếp Không lâm vào.
Xin để ý chữ Xung, Kiếp Không cực độc khi lâm Thiên Di. Và Hóa Kỵ cũng thế, cực độc khi xung chiếu. (Kỵ xung). Khi Lộc tồn bị Kiếp Không, Kỵ xung phá từ cung di, cho thấy sự băng hoại về mặt hình ảnh (Kỵ) – Làm chính trị thì hình ảnh tối quan trọng. Hình ảnh mà hoen ố, thì dĩ nhiên là lấy đâu ra: Chúng nhân sủng ái nữa. Kiếp Không đại diện cho sự bất ngờ, đối kháng. Khi nhập di cho thấy những đối kháng siêu cường không kém gì mình bất ngờ xuất hiện. Địch thủ mà mạnh thì dĩ nhiên là khó rồi. Thắng thua cũng không phải là chuyện dễ nghĩ bàn.
Mã lạc không vong trung thân bôn tẩu.
Mã lạc không vong (cụ thể mạnh nhất là Triệt không) – Tuần Không yếu hơn. (Vì phạm vi của Tuần không là bao vây miên man không dứt – Còn Triệt không thì lại chia cắt từng nhát khó lường). Khi Mã lạc thân vào không vong, thì cánh cửa động đãng của cơ hội cũng bị phong tỏa. Nghĩa là cơ hội quá mờ, và hôn ám. Độ số thành công sẽ thấp hơn rất nhiều.

Dù ntn đi nữa, chúng ta cũng phải ghi nhận rằng: Tang – Tuế - Điếu có cách cục Lộc Mã giao trì để nở mặt với đời. Để mà lấy đó làm bàn đạp để thành công, lấy đó mà cụ thể hóa Thiên Ấn. Lộc Mã giao trì chính là cơ hợi khai ấn cho một thiên triền mới.

Tứ Linh chính vị - Tuế Phù Hổ.

Tuế-Phù-Hổ và Tang-Tuế-Điếu vĩnh viễn ở thế đối xung như đã phân tích ở bài viết bên trên, nên khi chúng có sự giao thao thành cách sẽ có những nút thắt đặc biệt. Ví dụ điển hình là mẫu người Tang-Hổ (Tôi đã có lần phân tích về Tang hổ trong bài viết riêng).
Tang Môn vĩnh viễn mang cung chức là Phúc đức của Thái Tuế, nên khí thế của Tang Môn là lặng lẽ mà cô tịch. Tang Môn hoài niệm, cổ xưa, cũ kĩ, cũng như là những bảng gia phả mờ ám vì năm tháng và khói hương. Cung vị Tang Môn ưa sự cô đơn.
Trong khi Bạch Hổ chính là cung Tài của Thái Tuế. Vị trí động đãng nhất trong Tuế - Phù – Hổ. Cung vị bạch Hổ hướng ngoại, phô diễn tài năng. Nếu Thái Tuế là ông vua của năm, Đẩu Quân là người thừa hành lệnh của Thái Tuế (Lệnh tháng – Vô Thường xin phép được bàn đến vấn đề này vào một chủ đề khác), thì Bạch Hổ là nơi thể hiện rõ nhất sự tốt xấu của Tuế vị.
Chính vì lẽ đó Tang Hổ trở thành một sự đối xung mâu thuẫn nội ngoại cùng cực. Và cũng bổ xung cùng cực cho điểm khuyết thiếu của cả hai.

Khi Tang – Tuế - Điếu có Lộc Mã giao trì để tự hào, thì Tuế - Phù – Hổ sẽ có những cách dụng Hổ vị để tự hào. Và một trong những cách huyền thoại đó chính là Tứ Linh chính vị.
Trong Tử vi, có nhiều bộ Tứ huyền ảo như: Tứ Đức. Tứ Hóa, Tứ Linh…
Khi Tứ Đức là Tinh thần khí (Vĩnh viễn tụ tại vị trí Thiếu Dương – Thiên Không)
Khi Tứ Hóa là Thiên khí cường hóa Tứ Tượng vào huyền đồ.
Thì Tứ Linh là biểu tượng cho Vật chất. (Tứ Linh gồm có: Bạch Hổ - Hoa Cái – Long Trì – Phượng Các)
Bạch Hổ vĩnh viễn thuộc tam hợp Thái Tuế.
Long Trì khời Thìn,. Long Trì vĩnh viễn Tam hợp với Thái Tuế.
Phượng Các khởi Tuất, Phương các vĩnh viễn tam hợp với Giọt lệ đài trang Thiên Khốc. (Khốc khời từ vị trí Hư – Tuế Phá).
Hoa Cái vĩnh viền rơi vào vị trí Mộ của vòng Tràng sinh tam hợp cục. Mà Tuế/Phù/Hổ rơi vào vị trí Sinh vượng mộ của vòng này (Đã phân tích tại loạt bài bên trên). Do đó, Tuế Phù Hổ đương nhiên được hưởng trọn ven sự Đài các, uy nghi, cũng như kinh nghiệm thành quả (Mộ) của cả một vòng tam hợp do Hoa cái mang tới.
Như vậy Long Hổ Cái cần thêm khí Phượng các để hội tụ đủ Tam mộ đầy sự xa hoa (Hoa cái) quyền (long) quí(phượng) (Phượng khởi Tuất, Long khởi thin, Hoa Cái mộ khố). Lúc nãy Bạch Hổ là sứ giả của Thái Tuế để tổng quản tam đại tôn thần còn lại. Tạo thành Tứ đại tôn thần: Vinh, Hoa, Quyền, Quý. (Cũng như việc sao Khai Mộ phùng Mộ Khố vậy, cực kỳ hay)

Như vậy có thể thấy được sự đắc cách của chính vị Thái Tuế có đầy đủ bầu đoàn thê tử Tứ Linh Vinh Hoa Quyền Quý. Dường như sinh ra là một Thái Tuế đắc tứ linh chúng ta cũng có thể thấy được sự thường xuyên được ra vào nơi xa hoa trang trọng, phong thái đĩnh đạc, đàng hoàng (Do sướng quen rồi mà). Đã vậy khả năng hùng biện cũng đanh thép (Tang Hổ). Nên huyền thoại Thiên Lương đề cao Tuế Phù Hổ cũng không phải là ngẫu nhiên.
Bình luận mở rộng:
- Ngoài Lộc Mã giao trì và Tứ Linh chính vị đã nêu thì chúng ta còn thấy những cách cục khá mạnh khi đi kèm có thể xảy ra với hai bộ trên (cách bổ trợ).
Mã Khốc Khách
Tiền Mã – Hậu cái (hành vận).
Binh Hình Tướng Ấn (Cách này đi liền với Xuất Tướng Nhập Tướng)
Hổ khiếu Tây Phương
Hổ Cư Hổ vị
Long Hổ phong vân
Song Long xuất động
Song Long nhập uyên
Hổ Phi bá đạo
Hổ Tấu mẫn tiệp
Hổ vị oai hùng.
Phi Thiên Sát dụng Bạch Hổ cách.
Long Hà Kỵ anh hùng vận
Long nhập Long vị.
Xin được phân tích thêm vào các dịp tiếp theo.

Như vậy các anh em cũng có thể thấy được rằng, cuộc chơi của những tinh đẩu thần sát trong Tử vi cùng vô cùng gay cấn và quyết liệt. Nếu như qua loạt bài Âm - Dương tác đế vị, ta có thể thấy cuộc chơi chung của các ông lớn trong Huyền Đồ, thì qua loạt bài này: Chúng ta lại thấy được các ông lớn thành bại ra sao, phụ thuộc vào rất nhiều quân sỹ, thế trận trong tay họ.

Vô Thường muốn truyền tải rằng, vòng Tràng sinh ngoài ý nghĩa luận đoán ra, thì nó cũng chính là sợi dây liên kết chặt chẽ các cung vị. Khiến các cung không bị tách rời, làm cho dòng chảy vận hạn liền mạch miên man.

Xin được kết thúc câu chuyện Lộc Mã - Tứ Linh hay Tang - Tuế - Điếu và Tuế - Phù - Hổ tại đây.

Noted: Xin vui lòng lưu ý rằng: Nhiều từ Long ở bên trên được dùng cho Thanh Long. 


------
Bổ sung cho Lộc Mã giao trì vị trí xung chiếu giữa Lộc Mã (Mệnh - Di). Bài viết này bàn riêng với anh Geek, (Sau có thêm A Alex cũng nêu) vì anh nêu ra vấn đề này ngay khi Vô Thường viết loạt bài này.

Can Giáp. Lộc Dần

Tuổi Dần Ngọ Tuất có Mã xung Lộc
Tuổi Thân Tý Thìn có Mã Lộc đồng cung

Can Ất

Không xảy ra Mã Lộc xung.

Can Bính

Không xảy ra Mã Lộc xung.

Can Đinh

Không xảy ra Lộc Mã xung

Can Mậu

Không xảy ra Lộc mã xung

Can Kỷ

Không

Can canh. Lộc Thân

Tuổi Thân Tý Thìn Lộc Mã đồng xung
Tuổi Dần ngọ Tuất Lộc Mã đồng cung

Can Tân

Không xảy ra.

Can Nhâm

Không xảy ra

Can Quý

Không xảy ra.

Như vậy cho thấy Kết luận của đại sư về Lộc định đúng Âm/Dương vị mới xảy ra Lộc Mã giao trì hoàn toàn hợp lý.

Lộc mã giao trì là đặc sản của Giáp/Ất/Canh/Tân.

Quay về 2 trường hợp

A/ Giáp Dần Ngọ Tuất

Mệnh tọa Dần Ngọ Tuất - có Lộc vị ngộ Tràng sinh. Tuế Hổ Phù. Mã đối cung.

Và một yếu điểm siêu siêu khủng đó là Thiên Mã Triệt tọa cung Thiên Di

B/ Canh Thân Tý Thìn

Can canh tuổi Tang Tuế Điếu đương nhiên hưởng trọn Lộc mã đồng cung ( Tuổi Dần Ngọ Tuất)

Và hưởng cách Lộc mã xung chiếu cho tuổi Tuế Phù Hổ (Thân Tý Thìn)

Yếu điểm là Mã vị không hội được chính Ấn. 

Vậy tạm kết luận thêm:

Lộc Mã giao trì vẫn là đặc sản của tuổi Tang Tuế Điếu (Mã hội chính Ấn) và duy nhất Can canh thì hưởng trọn Lộc mã giao trì cho cả hai vòng.

Đương nhiên yếu điểm vẫn tồn tại như đã phân tích.


+++ Comments

(1) AlexPhong:

Lộc Mã giao trì chỉ có ở hai cung dần thân cho các tuổi Giáp Canh. Tại hai cung tị hợi nếu có thiên mã thì năm sinh âm, nếu có Lộc Tồn thì năm sinh dương nên không có cách cục Lộc Mã.
Giáp Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn Lộc Mã cư dần. Khi đó Trường Sinh đồng cung.
Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Tuất Lộc Mã cư thân. Khi đó Trường Sinh cũng đồng cung.
Cho nên cách cục Lộc Mã được đề cao ẩn tàng vị trí Trường Sinh. Đó mới là mấu chốt của vấn đề.
Tuổi giáp triệt ở thân dậu, tuổi canh triệt ở ngọ mùi nên hai tổ hợp trên đều tránh được triệt nhưng với tuổi giáp Triệt án ngữ thiên di. Mệnh có Thiên Mã mà thiên di gặp triệt thì không tốt, trừ phi cung Thiên Di VCD đắc cách ngộ Triệt.
Giáp Thân, Giáp Tý đều tránh được tuần tại dần. Nhưng Giáp Thìn có Tuần án ngữ dần nên phá tan cách cục Lộc Mã. Giáp Thân tuần án ngữ cung quan lộc. Giáp Tý tuần án ngữ cung tài bạch.
Nếu nói Lộc Mã chủ tiền tài hơn danh vị thì Giáp Thân tốt hơn Giáp Tý.
Như vậy Giáp Thân > Giáp Tý > Giáp Thìn. Xét thêm nạp âm năm sinh thì Giáp Thân mệnh thủy khắc cục hỏa. Giáp Tý mệnh kim, hỏa cục khắc mệnh kim. Giáp Thìn mệnh hỏa tỷ hòa cục hỏa trường sinh. Xét theo mệnh cục thì các tuổi trên được bù đắp ngược lại. Nhưng đó chính là sự trái nghịch không cộng hưởng của ngũ hành và tinh đẩu cho trường hợp Lộc Mã tại Dần.

Xét Canh dần ngọ tuất tương tự.
Canh dần tuần triệt án ngữ cung bào cung thê.
Canh ngọ tuần án ngữ phúc điền, triệt án ngữ bào và thê.
Canh tuất tuần án ngữ tật và di, triệt án ngữ bào vào thê.
Xét ra thì mệnh tài quan tránh được tuần triệt, có tuổi canh tuất thiên di bị triệt.
Canh dần mệnh mộc là là cục sinh mệnh, canh ngọ mệnh thổ khắc cục thủy, canh tuất mệnh kim sinh cục thủy. Đây là các cộng hưởng thuận chiều với tinh đẩu khẳng định cách cục Lộc Mã tốt nhất ở dần. Phải chăng vì thế mà cổ nhân cho rằng Thiên mã hành hỏa. Tại dần hỏa sinh, còn tại thân hỏa bệnh.

Lộc Mã: Canh dần > canh ngọ > canh tuất > giáp thân > giáp tý > giáp thìn 

====
Vo Thuong
2 can Tân Ất Lộc cư Âm vị, nên Mã hội lộc Tại Tỵ Hợi qua tam hợp.

Như vậy 4 can: Giáp Ất Canh Tân Lộc cư đúng vị mới hưởng cách Lộc Mã giao trì,

Mã ngộ Tràng sinh lại là cuộc chơi khác. Không phân tích dựa trên Lộc khí thiên can. Đương nhiên Lộc Mã giao trì hội Tràng sinh sẽ là Kỳ cách bổ sung.

Cũng như Song Long nhập uyên dành cho tuổi Giáp Tý. Bản thân Song Long đã là cách, Nhập thêm Uyên thì sẽ bổ sung thêm cách đẹp.

Nhưng cái giá phải trả của Lộc mã đồng cung là gì? Là giáp Kình Đà. Không cần Kỵ xung, chỉ cần Kỵ nhập mệnh cũng hình thành nên cách cực xấu rồi. Nghĩa là có thêm điểm yếu khi Kỵ xung và Kỵ nhập.

Bất kì một kì cách nào cũng sẽ có cái giá phải trả tương ứng trên huyền đồ. 

(2) KimCa
Thiên Mã bản chất Dịch Mã vốn chủ 'vận động'.

Mã là hỷ thì ít là có lợi lộc trong sự vận động, nhiều là được thăng quan tiến chức. Mã là kỵ thì nhẹ là bôn ba lao lực khắp nơi, nặng là bị tai họa, giáng chức. 
Vậy khi nào Mã là Hỷ, khi nào Mã là Kỵ? 

Mã là Hỷ khi có những sao cần đến sự vận động đó, đó là những sao Tĩnh. Mã Động cần gặp sao Tĩnh, Động Tĩnh hài hòa mà phát huy tác dụng vốn có của Thiên mã và sao Tĩnh. do đó Mã phù hợp với Lộc tồn, Thiên phủ...Mã là kỵ khi gặp những sao mang tính động, vì sẽ cộng hưởng làm cho con người bôn ba lao lực, hoặc quá mất cân bằng trong sự vận động của Thiên Mã mà mất tiền mất chức. Ví dụ Không kiếp, Hỏa Linh, Phá quân...

tTrở lại với Mã Lộc tồn, vì sao Thiên Mã hợp Lộc tồn mà không phải Hóa lộc, vì Hóa lộc chủ động, tán khí. Lộc tồn chủ Tĩnh, Tụ khí. Cho nên Mã hợp Lộc tồn mà không hợp Hóa lộc. Thiên mã chính là Hỷ thần của Lộc tồn, bởi lợi lộc con người có được là trong cái sự vận động của tổ chức hay xã hội, không phải lợi lộc trên trời rơi xuống. Người có Lộc tồn ham muốn kiếm tiền và luôn suy nghỉ về tiền bạc, tức là mang nặng ý nghỉ tiền bạc, chính vì mang nặng ý nghỉ kiếm tiền mà họ sẽ tìm cách kiếm tiền,và biết cách kiếm tiền, đó là nguồn gốc tiền bạc của Lộc tồn, chứ không phải ngồi một chổ chờ tiền bạc trên trời rơi xuống. Thiên Mã lộc tồn chính là cách kinh doanh thành đại phú. Và trong cái vòng xoáy tiền bạc của Lộc tồn thì Thiên mã đã giúp họ vận động kinh doanh để có tiền. dần thành đại phú. Kinh doanh vốn chủ Động. Giống nhất như sự vận động của Thiên mã, và lẽ dĩ nhiên cái sự vận động đó là kiếm được tiền bạc bởi lộc tồn là sao vốn chủ tiền bạc và chủ phúc thọ. 

Lại như Lộc Mã không vận động thì không hoạch tài, ví như làm quan thì không dụng đến Lộc Mã, do Cách cục làm Quan lấn át cách cục Lộc Mã. Do vậy Thiên Mã đã ngã theo cách Làm quan thay vì Lộc tồn. Nhưng trong cái sự vận động làm Quan thì nhờ quyền mà có tiền Lộc tồn. 

Lộc tồn là tài, Mã cũng là tài nếu Mã là Hỷ thần trong cái sự vận động cuả nó. 


(3) Thao911
Đồng ý với anh Vô Thường về tính cách của những người có mệnh thân vòng tang tuế điếu ,phải noi la ho co nhiều nghị lực và rất rất siêng năng .Cũng đồng ý với anh khi qua hạn mã hao là hạn sẽ động ,sẽ tìm thây ánh sáng ,sẽ tìm thấy hy vong nếu đang bế tắc .Đây là tin vui với những người trong đại hạn thiên phủ ,nêu đai han sắp tới có găp ma hao ,đừng sơ khi thay đôi ,đó sẽ là điều tôt 


Những người mệnh thân vong tang tuế điếu phải nói là cuộc đơi họ xung khắc voi người thân rất nhiều ,nhe là xung khắc tính cách ,nặng là xung khắc mạng .Và họ la nhung nguoi kỹ tính và suy tính mọi viêc rất chac chắn ,ko phai túyp người phóng khoáng như đào -không dù là tièn bạc hay tình cảm 


Và họ cần con thiên mã đê thay đổi cuợc đời mình 

(4) KimCa
Lạ nhỉ ! sao mọi người lại cứ bị ám ảnh bởi việc Thái tuế là Quân tử, Tuế phá là Tiểu nhân vậy? đó là nhận định của cụ Thiên Lương, người sau học Tử vi lúc nào cũng tranh cãi có mỗi nấy, chả hiểu họ tại sao họ bị ám ảnh đến vậy? phải chăng họ sợ họ là Tiểu nhân, họ muốn là quân tử để phán xét người khác.

Tử vi có rất nhiều chủ đề, rất nhiều sách, Cụ TL đáng quý viết sách cho hậu học biết những gì cụ biết, đó là điều rất tốt. Nhưng không vì vậy mà quá sa đà và bị ám ảnh bởi những gì cụ viết. 

Chủ đề này đã được nói quá nhiều, tốt nhất là nên dừng việc phân biệt quân tử, tiểu nhân và thay vào đó là bàn luận về ảnh hưởng của Vòng Thái tuế lên cuộc đời của mỗi người, từ đó hiểu dần về mệnh lý và ứng dụng cuộc sống. Chứ không phải tranh cãi việc vô bổ quân tử hay tiểu nhân. 

Nói thêm về Tang Tuế Điếu và Lộc Mã, thực chất chẳng có liên quan nào của Tang Tuế Điếu đến Thiên Mã, Thiên mã là tổng số Thái huyền của tam hợp, nó là nơi tập trung năng lượng cao nhất của tam hợp, nên vốn chủ về Động, đó là nguồn gốc Thiên Mã. Còn Tang Tuế Điếu hình thành từ nguyên lý Vòng Thái tuế, nên 2 cái này là khác nhau. 

Cho nên việc nói Thiên Mã là nghị lực của Tang Tuế Điếu là không đúng, đây là nhận định của Cụ TL, nhưng không có nghĩa người sau cứ phải theo như những gì cụ viết, giống như Cụ Hà Uyên viết Vòng Trường Sinh Cục đi thuận cho mọi tuổi vậy, nhưng có rất nhiều người không theo ý Cụ vậy. 

Về Thái tuế là vua của một năm, nắm quyền sinh sát, có quyền lực mạnh nhất trong năm đó. Ở thế tam hợp là thân cận vua Thái tuế, chính là Quan võ Bạch hổ và Quan văn Quan Phù, Hoa cái là cái lọng che của Vua, Long Phượng là báu vật của Vua. Đó là mượn ý diễn tượng. Quan võ Bạch hổ thực thi việc sinh sát theo lệnh của Thái tuế, cho nên người có Bạch hổ hoặc Bạch hổ trúng vào cung nào là cung đó dể ngủm, ví dụ Bạch hổ vào Phụ mẫu là đi bố hoặc đi mẹ, hoặc là đi cả 2. 

Cho nên người có Thái tuế chưa chắc đã sướng, có thể họ sướng vì họ có niềm tin mãnh liệt vào bản thân họ, người có thái tuế rất có niềm tin, lòng tự tôn cao. Đó là đặc điểm nổi bật. 

(5)Hoa Cái

Các giới hạn:
Giới hạn của môn Tử Vi: 1 giờ có rất nhiều trùng số . Xã hội biến thiên không ngừng .

Giới hạn của lý thuyết gia không đủ bao quát, đề cao những thứ chỉ mình nghiệm lý qua lăng kính nào đó và tuỳ thuộc vào tình hình (xã hội thời bình hay thời loạn, phương Tây hay Đông, Cộng Sản hay không Cộng Sản) -----> lý thuyết của 1 cá nhân chỉ mang tinh' tương đối 70% đúng nhưng đúng như thế nào còn tuỳ vào tướng cách và nhân duyên của người đó . Từ đó suy ra thuyết Tam Tài của cụ TL mang tính sơ lược và tương đối .

Tứ Linh mang các ý nghĩa : vinh dự, quyền quý, thuận thời .

Quyền Quý dễ dẫn tới của cải (Long Phượng) và danh dự (Hoa Cái) .
Cố gắng thực hiện mục tiêu của mình chính là Bạch Hổ gan lì bất khuất .

Nhưng các chính tinh và cách cục mới là chánh yếu khi lượng định tính cách và độ số của các tinh đẩu hội tụ .

Mỗi sao chủ 1,2,3 điều gì đó . Sao tài Hoá Lộc, Lộc Tồn dĩ nhiên là sức mạnh ắt có và đủ để giúp 1 người có tiền của, không phải cứ đắc Tứ Linh là sang giàu !

Các phủ định (disclaimers):

1. Đừng có bao giờ thấy 1 người có Tứ Linh thì cho là người đó là danh môn chính phái, là quân tử .

Tôi từ lâu đã thấy nhiều lá số có Long Phuợng nhưng hành động rất khả ố : gian, tham .

2. Không phải cứ vào hạn Thái Tuế có Long Phượng là mình giương oai (Long bay) điệu bộ ta đây (Phượng múa).
Có bao giờ nghe mấy chữ Phạm Tuế, Xung Tuế, con Hổ chết chưa (1)?

3. Lý thuyết về vòng Thái Tuế của cụ TL chỉ ứng nghiệm chừng 70% về số luợng và sức mạnh

Là vì các sao của vòng Thái Tuế chỉ là trung tinh, duy các tụ điểm của Long Phượng, Hoa Cái, Bạch Hổ là các chỗ mẫn cảm của 1 lá số, đâu khác gì vị trí của Thiên Mã vốn là thành phần chủ lực của thế Tang Môn Điêu Khách Tuế Phá .

Tóm lại khi ta quá tin vào 1 lý thuyết, quá yêu 1 thứ gì đó (ví dụ đắm chìm trong n/c Tử Vi) thì mọi sự thua thiệt sẽ dành cho ta đó .

Rất tội nghiệp cho giòng giống đam mê và hăng say tìm tòi theo đuổi bói toán .

Nếu cho tôi đi ngược dòng thời gian thì tôi không muốn dính líu đến huyền cơ ! Nhưng không lẽ tôi có thể đảo mệnh ?

HC

(1) Hổ bị đoạt tinh = Hổ như người ta, cũng có mệnh khí tức nguyên khí, nếu Hổ gặp sát tinh hãm thì Hổ chết hết còn uy lực .

Nhưng cần sát tinh để Hổ được thử thách để nổi danh vang dội và tiếng dội xa xăm .

Tại TVLS, có 1 vị thành danh với uy lực của 1 con Hổ cư Dần đi kèm cùng Tử Phủ nên đây là 1 đại gia trong làng bói toán mạng ảo . (2)
Xưng là Cô Gia tức Cô Thần uy nghiêm, độc lập, cô đơn . Nay đã cáo lão vui đùa cùng tre trúc và đứa con còn nhỏ vì mình là Hổ rất hùng mạnh về mặt ấy nên hậu duệ còn sinh ra lúc mình đã già .

Nhưng Hổ cũng biết nhớ Về Rừng nhất là đêm 30 của 1 ngày cuối năm. :Giggle:
Bạch Hổ gặp Đường Phù = kiện cáo lôi thôi, gần đất xa trời . Đã có Thái Tuế sao còn Đường Phù, nhưng muốn thành cách thì phải có các cách phá bại sẽ thành cảnh Vương Viên Ngoại (Kim Vân Kiều) bị công môn hỏi tội, gia sản rung rinh và nàng Kiều phải bán thân chuộc cho cha .

--------------------------------------------------------------------

(2) nhờ minhnguyen hay bất cứ ai tài giỏi đoán xem HVR sinh vào thế hệ nào, năm nào (nếu có thể), rồi đưa vào bảng phong thần

- Mệnh tại Dần ôm Hổ, cùng Cô Thần, có thể này 2 sao này an cùng 1 cung .
- Ít nhất 55t tới 65 t hiện nay 

(6) Vo Thuong
Rất tội nghiệp cho giòng giống đam mê và hăng say tìm tòi theo đuổi bói toán .

Nếu cho tôi đi ngược dòng thời gian thì tôi không muốn dính líu đến huyền cơ ! Nhưng không lẽ tôi có thể đảo mệnh ?


Rõ ràng là như thế. Trăm thứ đam mê trên thế gian này đều có sướng khổ của nó. Do đó, chúng ta chỉ nên làm kẻ dạo chơi qua chúng chứ không nên đâm đầu si mê chúng.

Trong Tử vi có những ngôi sao giác ngộ huyền học như:

Hồng Không Cô Quả Sát Hà.

LN văn tinh đắc tam minh

Hoa Cái đắc khí Hàng Long Phục Hổ

Tứ đại ám tinh lai củng mệnh thạch trung ẩn ngọc


(7) An Khoa
y = f(x) = x1 + x2 + x3 + ... +xn

Đừng bao giờ dựa vào một vài biến số x để quy kết cho cả hàm f(x).

Mặc dù trong từng khoảng thời gian, thì ta sẽ có sự tương ứng giữa một vài biến x với giá trị tổng của f(x), nhưng nó chỉ có ý nghĩa trong khoảng đó, không chắc là sẽ đúng với các khoảng khác.

Posted Image

Toàn bộ nền Dịch lý đông phương có thể chốt lại bằng 1 chữ : THỜI

Và điều hơi ngạc nhiên là, những người nghiên cứu Dịch lại là người có tư duy "cứng nhắc" nhất, so với những người không nghiên cứu ở ngoài đời. Có lẽ nó bị ảnh hưởng bởi phong trào "Khoa học hoá, Logic hoá" mọi thứ trong cuộc sống.

Tử Vi không bao giờ đủ khả năng phân định người tốt kẻ xấu, quân tử hay tiểu nhân. Có lẽ các tử vi gia vẫn không tránh khỏi cái tật xấu thích soi mói, phê bình, đoán định người khác trước khi tiếp xúc với họ, cứ thể như là họ luôn là người đủ thẩm quyền không bằng.

Có 1 câu nói tôi nghĩ rằng có thể áp dụng cho bất kỳ ai khi nói về tốt xấu:

"Kẻ tốt khác kẻ xấu chỉ ở 1 điểm, đó là kẻ tốt không có cơ hội làm điều xấu mà thôi."

Những nhà nghiên cứu ít trải nghiệm hay có những suy nghĩ khá ngây thơ và thuần tính về con người và xã hội đầy biến động. Họ nghĩ rằng họ có thể biết về những thứ mà họ chưa từng trải nghiệm.

Có ai có thể biết về mùi vị của một món ăn mà chỉ thông qua các giáo sư tiến sĩ mô tả về nó ? 

(8) Hoa Cái
Thiên Mã gặp KK = Kỳ Nhân Khước Hiệp

Cụ Thiên Lương cho rằng Thiên Mã, Tả Hữu và Nhật Nguyệt là 3 cách cục đặc sắc để được xem là 3 viên ngọc quý .

Vì Ý mà quên Lời . Phải chăng ai ôm Thiên Mã cũng tài ba mẫn tiệp (tức xoay trở giỏi) hay Mã này là mã què ? Có người đem số hỏi, "Tại sao em có Mã cung Di mà không đi nhiều ?".

Tôi nhìn cung Tị nơi Mã của đương số thấy KK đồng toạ thì biết rằng Mã này gặp nghịch cảnh thì làm sao Mã lập kỳ tích để mình thành Kỳ Nhân, trái lại tinh thần hiệp sĩ bị từ khước (tức phủ nhận) thì bước ra ngoài là thấy thác đổ mưa to, như vậy không ra ngoài gì lại là điều tốt .

Mã cung Di với Mã cung Mệnh có khác nhau không ?

Ai đáp được câu hỏi trên với luận lý ràng mạch và có các lá số minh chứng thì tôi xin nhường tên hiệu Kỳ Viên cho người đó 1 cách khâm phục ! hihi 


(9) Hồng Tiệm
@Bác Hoa Cái: Cháu biết một vài trường hợp Thiên Mã tại Mệnh hoặc Thân đều là những người năng động, giỏi xoay sở nhưng nhìn chung là vất vả, công việc liên quan tới di chuyển, đi lại...Nhưng không hẳn là hoàn toàn do hoàn cảnh phải đi lại nhiều mà đôi khi do bản tính ưa hoạt động, không thể ngồi yên một chỗ ít khi chịu cảnh nhàn dỗi, ngồi không, thường thì lao động tạo nên sự sáng tạo, nên những nguời có Thiên Mã cũng hợp với công việc mang tính sáng tạo, khai phá, phát minh. Trường hợp Mệnh hoặc Thân có bộ Mã Khốc Khách cùng sát tinh hội hợp thì thường lại rất giỏi và có thành tích trong lĩnh vực thể thao, thể lực.

Còn Thiên Mã cung Di thì cháu thấy tính chất di chuyển, hoạt động của Thiên Mã phần nhiều do hoàn cảnh chứ không hẳn họ là người ưa vận động nhưng do đặc thù công việc, cuộc sống hay phải di chuyển, như công việc liên quan tới vận tải, hàng không, liên doanh nước ngoài, số xuất ngoại, thậm chí lấy chồng/ vợ ngoại quốc nếu có thêm Cát tinh hội.

HT có hai người thân năm nay tiểu hạn có Lưu Thiên Mã xung chiếu có Hoá Lộc một người chuyển việc từ Nhà nước sang làm kinh doanh, một người vừa chuyển việc vừa thăng chức, công việc cả hai đều liên quan tới việc phải di chuyển nhiều.


(10) Minh Giác
Thiên mã mà có bộ khốc khách thì, thì đa tài đa nghệ rất giỏi, ứng biến gọi là mã siêu, được linh hỏa phụ trợ thành chiến mã, nghênh lộc là mã kim quả thật kỳ diệu!

bạn Đồng Lương Không Kiếp tại dần hay thân? chắc tuổi mậu thìn? mệnh lập tại dần được thủy cục. có không kiếp đồng cung tức sinh giờ mão thân cư di. lại có song hao kích phát. nếu đồng lương tại dần thì thái âm tại tài bạch hóa quyền, quan lộc cơ hóa kỵ. tuy đa tài đa nghệ, phong lưu) mệnh ở vị trí bệnh, lại gia không kiếp song hao nhất phòng làm ăn liều lĩnh mà bại, nhì phòng tai nạn trộm cướp!.