Tử vi phải nói là một môn khó học, nếu không muốn nói là rất rất khó học. Bởi vì xét một cách khách quan, nguồn gốc của Tử vi đã không rõ ràng, đã thế lại còn chia thành nhiều Phái khác nhau, nhiều lý thuyết khác nhau, sách vở nhiều như rừng, cao thủ nhiều như mây. Sách viết loạn xì ngầu, người không biết thì cố tỏ ra mình biết để hơn người, người biết thì thò thò thụt thụt, cắt xén và truyền lại cho con em hay đệ tử chân truyền, người học thì thật giả lẫn lộn, cuối cùng vừa tốn tiền bạc mua sách vở, cho thầy tử vi, mất tiền vì thời gian đó đã lẽ phải dành để kiếm tiền, không những thế lại còn hao tâm tổn sức, đầu óc trên mây.
Hôm nay KC được nghỉ làm, có điều kiện rãnh rỗi lật lại một chủ đề, chủ đề cũ nhưng vẫn còn rất mới. Nó khiến cho từ cao thủ, trung thủ đến thấp thủ phải lao vào một cuộc tranh luận không có hồi kết. Để rồi của ai người nấy dùng, tôi nghỉ nó đúng thì tôi sử dụng, còn anh sử dụng thế nào thì kệ anh. Người sau học thấy tín nhiệm ai thì theo quan điểm của người đó. Vòng Trường sinh cục (VTSC) là chủ đề được hóc búa, hóc búa ngay từ nguồn gốc của Cục Số, vấn đề Cục Số đã có đáp án, ở đây không đề cập đến vì nó liên quan đến base hệ thống phức tạp. Chỉ đề cập đến cách sử dụng VTSC sao cho chính xác.
Ở TVLS chủ đề VTSC đã được nói đến rất nhiều, có nhiều phe phái khác nhau, chủ yếu được chia thành 2 phe chính. Phe theo VTSC đi thuận cho mọi tuổi, tiêu biểu là cụ HÀ Uyên, ông Thiên Kỷ Quý, ông Long Nguyên Quang. Phe theo VTSC đi thuận nghịch theo tuổi mà tiêu biểu là ông Vuivui. Còn có một phe khác vô thưởng vô phạt cho rằng VTSC chẳng có mấy ý nghĩa trong luận đoán, nó mờ nhạt, theo quan điểm này phải nói đến ông vDTT. Mới quay một vòng các vị Thượng khách diễn đàn đã thấy quan điểm khác xa nhau rồi, chưa kể đến lúc luận đoán còn khác nữa. Ai cũng có quan điểm và niềm tin cho rằng mình đúng. Ông vuivui dùng phương pháp Quy nạp theo base và sở ngộ của ông chứng minh VTSC theo Thái Thứ Lang là đúng. Một số nhà nghiên cứu khác cũng dùng phương pháp Quy nạp cho rằng VTSC thuận nghịch theo tuổi, và còn đưa ra những con số thống kê để Diễn dịch.
VTS được tính thuận cho mọi tuổi không phải không có lý, việc dùng VTS Ngũ hành Nạp âm để luận số đã được dùng cho phương pháp luận Tử Bình cổ, bằng cách luận NHNA của các Trụ Năm Tháng Ngày Giờ, dựa trên sinh khắc chế hóa và quan trọng hơn là Vòng trường sinh. Điều dễ nhận thấy là trong cách luận Tử bình cổ đã cho thấy VTS NHNA là đi thuận. Vấn đề còn lại ở đây là điểm chung và riêng của Cục Số và NHNA. Chính vì thế mới có nhiều thuyết.
Trong bài viết này Kim Ca theo phe VTSC có Thuận nghịch. Cục số là NHNA cung mệnh, đại biểu cho Nhân, điểm khác biệt của Cục Số và NHNA là Cục Số là đại diện của con người ( Nhân ), nó thuộc về ta vì nó ở cung mệnh, gắn liền với lúc con người sinh ra, nếu xem Cung mệnh là nơi mà ta sinh ra, thì Cục Số như là Sổ hộ khẩu, Chứng minh nhân dân của ta, đó là giấy chứng nhận sự có mặt của ta ở vị trí ta sinh ra. còn NHNA nói chung không đại diện cho ta, mà chỉ là yếu tố chung. Bản mệnh là NHNA của năm mà ta sinh ra, không thuộc về ta, Bản mệnh chỉ là suy từ thời gian (NHNA suy từ lục thập hoa giáp ) mà ta sinh ra. Mà thời gian thì chỉ có thuận mà không có nghịch, do vậy Bản mệnh là đi thuận. Còn NHNA thuộc về ta, là cái chứng minh sự hiện diện của phần Nhân, mà con người có Âm Dương Nam nữ, nên phải có thuận nghịch. Khi Kim Ca luận đến đây, có người đồng ý, có người không đồng ý. Nhưng tùy quan điểm của người đọc, Kim Ca sẽ theo phe VTSC đi thuận nghịch và cho phần luận phía dưới.
Có rất nhiều lý giải xung quanh ý nghĩa của VTSC, điều đầu tiên phải nói đến cuốn sách kinh điển nhất của Tử vi để đầu giường, đó là Tử vi Đẩu Số Toàn Thư. Trong sách ít đề cập đến VTSC nhưng có 2 câu thơ làm nổi bật lên ý nghĩa của nó.
Sinh phùng bại địa, phát dã như hoa
Tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại
Chỉ có 2 câu thơ nhưng lại có nhiều cách lý giải, một số người cho rằng nếu Mệnh sinh ra ở vị trí Mộc dục của VTSC thì có phát cũng không bền, nếu Mệnh sinh ra ở vị trí Tuyệt của VTSC mà có Chính tinh sinh cho bản mệnh thì vẫn đạt được. Nhưng chưa phải đó là tất cả, một số người khác cho rằng, vị trí Tuyệt và Mộc dục thuộc VTS bản mệnh chứ không phải là VTS Cục. Theo quan điểm của Kim Ca, đã có cục số là đại diện cho phần Nhân thì hà tất còn dùng bản mệnh, vì khi đó nó rất thừa. Cho nên 2 câu trên ứng cho VTSC là rất có lý. Nhưng có nhà nghiên cứu Tử vi khác lại không đồng tình. Cho rằng câu tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại là khi mệnh ở vị trí tuyệt của VTS đến vận gặp Tràng Sinh là Tuyệt xứ phùng sinh, đây là quan điểm của ông Vương Đình Chi. Nếu tôi nhớ không lầm. Nhưng có vấn đề là nếu đã gặp Trường sinh ở vận trong 10 năm mà dùng từ bất bại thì e là không hợp lý chút nào. Cho nên kim Ca nhận định 2 câu trên ứng nghiện cho VTSC là khả dĩ nhất.
Nếu Cục Số là đại diện cho con người, thì VTSC chính là dòng thời gian con người trải qua. Hay nói cách khác, chính là Thời của con người qua từng giai đoạn, còn Cung vị chính là nơi mà ta đến. Do vậy Vòng TSC và Cung Vị hợp thành Không Thời Gian của con người. Khi luận số thì tất cả cho rằng Cung vị ( không gian ) quan trọng, nhưng đã bỏ qua mất phần Thời là VTSC. Như Ta sinh ra ở Bắc mà vào Nam thì đó là Cung Vị, nó làm thay đổi cuộc đời ta, Còn thời điểm ta vào nam lại là VTSC. Nói đúng hơn là Ta vào Nam lúc nào đã bao gồm Không Thời Gian rồi. VTSC áp dụng cho Đại vận 10 năm.
Trong Tử bình thì dùng lệnh tháng làm chuẩn từ đó mà suy ra vòng Đại vận theo lục thập hoa giáp, nó có cái gì đó giống với Cục Số ở chổ làm chuẩn cho Đại vận. Từ lệnh tháng mà theo Nam Nữ tuổi tác để định Thuận nghịch, cho đại vận, nếu cho rằng thời gian là không đi lùi và lập luận vòng Đại vận trong Tử bình đi thuận cho mọi tuổi nam nữ thì quá là lầm to. Tương tự như phần Cục Số và Bản mệnh vậy.
Đến đậy chắc quý vị cũng nôm na hiểu và có thể không hiểu những điều Kim Ca viết. Phần Kim Ca viết đã mở ra con đường luận giải về Thời của con người, lúc thịnh lúc suy. Trong tử bình thì Thân có thể Vượng Suy theo Đại Vận từ lệnh tháng, Trong Tử vi mệnh có thể vượng suy theo Thời của VTSC.
+++ Comments:
(1) Zodiac
Tôi có cùng suy nghĩ với KimCa về vai trò của vòng trường sinh như một dạng khí cho từng cung. Vòng trường sinh có 12 sao nhưng đến nay đa số đều xem đó là "sao thực sự" như các tinh đẩu khác. Nếu theo quan điểm này, vai trò của 12 sao quả thật không nổi bật gì. Các cách cục quan trọng trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư hầu như vắng bóng những sao này. Phú tử vi Việt thỉnh thoảng có nhưng đa phần xoay quanh những mảng nhỏ lẻ hoặc giả có liên quan đến tài quan thì vị trí của sao vòng trường sinh khá khiêm tốn.
Theo lập luận trên, vòng trường sinh có khả năng thiên về "trường" và "khí", vai trò tương tự Tứ Hóa và Tuần Triệt trên lá số. Cách hiểu này tương đồng với bên Tử Bình, vòng trường sinh để đánh giá lực lượng mạnh yếu của ngũ hành bát tự. Với Tử Vi, vấn đề phát sinh chính là sao vòng trường sinh Tử Vi ảnh hưởng đến thành phần nào của cung nó đóng: Bản thân cung (mệnh, tài, quan,...), ngũ hành cung, chính tinh hay toàn bộ tinh đẩu trong cung?
Tôi không nghĩ vòng trường sinh có thể ảnh hưởng mạnh đến mệnh với lý do chính thư nhắc đến Sinh Vượng Bại Tuyệt (tương hợp hơn với kiểu đánh giá ngũ hành nạp âm bản mệnh kinh điển) ngoài ra không đoái hoài đến các vị trí khác mặc dù tạm lấy lý luận bên Tử Bình, Quan Đới hoàn toàn khác biệt với Tử. Ngoài ra đánh giá tương tác Cục Mệnh đã có trực tiếp nên khó có lý nào từ Cục số quy ra thêm một loạt sao để tiếp tục đánh giá bản mệnh. Ảnh hưởng đến ngũ hành cung càng không có cơ sở. Riêng về mối quan hệ với tinh đẩu trong cung, Zodiac thiên về suy nghĩ này hơn vì nó góp phần giải thích được các câu phú Việt cũng như giải thích được luôn vai trò khiêm tốn của 12 sao này. Tôi tạm mượn hình tượng của cô LienHuong về đánh giá vòng trường sinh, đó là biểu hiện của "sức khỏe của sao", chỉ thay đổi chút ít là sức khỏe "thêm vào" cho sao. Ở mỗi cung vị, từng sao đã có lực riêng của mình sau khi tương tác với âm dương ngũ hành cung, biểu lộ ra bằng sự miếu hãm nên sự "thêm vào" này nhiều lúc bị mờ nhạt cũng có thể hiểu được.
Vòng trường sinh gây tranh cãi rất nhiều và như KimCa nói chia thành 3 trường phái. Đánh giá chủ quan về công lực và khả năng luận đoán xem như tương đương nhau. Mấu chốt nằm ở phái vòng trường sinh không đóng góp gì quan trọng. Phải chăng chính sự không quan trọng này giải thích được việc đi thuận, đi nghịch gì cũng vậy.
Nói là như thế nhưng tôi vẫn không cho rằng 12 sao của vòng trường sinh hoàn toàn vô dụng. Ắt phải có điều kiện nào đó để ảnh hưởng của nhóm sao này bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên trước khi tìm ra được quy luật, bản thân Zodiac cũng đành xem đó là 12 khúc gân gà, "bỏ thì thương, vương thì tội". Cũng may không phải riêng mình, mỗi lần đọc những bài luận giải của người khác, rất thường thấy 12 sao vòng trường sinh vô tình hay cố ý bị xem như tàng hình hoặc xuất hiện nhỏ bé trong kiểu gom sao bầy đàn hoặc có thành cách cục chỉ quanh quẩn ở "Thai Phục Vượng Tướng", "Đào Hoa mà ngộ sao Thai...".
===> KimCa
hi Zodiac
nhớ Zodiac có lập 1 chủ đề liên quan đến Gấu, lúc đó tưởng Zodiac là vô Thường, nhưng sau mới thấy không phải.
Khi đọc bài viết thì Kim Ca thấy Zodiac vẫn chưa hiểu điều Kim Ca viết, Zodiac có lẽ giống với thatsat khi cho rằng Vòng Trường Sinh Cục ảnh hưởng lên nặng nhẹ của chính tinh, như Phá Quân có độ sáng là +3, khi được vị trí Đế Vượng VTSC thì độ sáng sẽ tăng lên +4, ngược lại gặp nơi Tử thì độ sáng còn +2...suy cho các Cung khác phân định năng nhẹ chính tinh...
Nhưng Kim Ca không có cách luận Trường hay Khí, cũng không có kiểu luận Hỷ Kỵ thần. Còn mệnh Cục tương hòa, sinh khắc là đang nói đến Vị, còn điều Kim Ca viết là VTSC là chữ Thời. Đó là điều khác biệt giữa so sánh Mệnh Cục và quy luật vòng TS. Mệnh Cục đã bao gồm 2 chữ Thời Vị. ví dụ : anh A sinh ra được Thời tốt, lại được sinh ra một nơi tốt. sinh ra ở Mỹ khác với sinh ra ở VN, đó là Mệnh Cục, sinh ra bên Mỹ lại được Thời. Đó là VTSC. Cho nên Vượng Suy VTSC đã nói lên con người lúc sinh ra gặp Thời hay không, tốt thì tốt đến mức nào, xấu thì xấu đến mức nào. Được Thời chứ không phải là gặp Thời
Quay lại ví dụ : sinh phùng bại địa, phát dã như hoa. Tuyệt xứ phùng sinh hoa nhi bất bại. Sinh ra không được Thời thì khí chất không đủ nên mệnh không quản được Tài Quan.
Thời là Thời điểm, VTSC dùng để xem đại vận. Vượng suy của từng Đại vận. Gặp Thời tốt thì tăng ảnh hưởng tốt của cung đó, nếu Cung Vị có tổ hợp sao xấu thì được Thời mà không được Vị. Phân biệt sự khác nhau giữa Thời và Vị là có thể xem được Đại Vận đầy đủ. Đại vận bao gồm cả Thời và Vị, ví dụ : đại vận đến năm 35t, vừa được tổ hợp hợp cách tức là được Vị, nhưng đồng thời lại được Thời.
Vì sao lại nói thế? Đại vận là dòng Thời của Cục, con người có thịnh có suy, nên mỗi người có sự thăng trầm giống như sự thịnh suy của VTSC. VTSC là dòng Thời của mỗi người, tức là trạng thái thịnh suy của mỗi người theo từng giai đoạn. Giống như Đại vận theo Nguyệt lệnh tử Bình vậy, sao Đại vận trong Tử Bình không đi thuận cả? mà lại có Thuận nghịch, bởi vị Đại vận không phải là thời gian theo quan điểm của Vật lý, mà Đại vận là trạng thái thịnh suy của mỗi người theo từng giai đoan. Cho nên có lúc Thân ta vượng, có lúc Thân ta suy.
Có thể lấy ví dụ đơn giản là vào vận tam hợp mệnh cùng tổ hợp sao cả mà có người lên voi, có người xuống chó. Đó là do thời cả thôi.
===> Zodiac
Thực ra tôi chỉ trình bày quan điểm của tôi về vòng trường sinh tác động lên lá số. Không có thiên về phản biện quan điểm của KimCa. Nếu có họa chăng là cảm thấy vòng trường sinh không tác động đến mệnh mạnh mẽ thôi.
Riêng về cái Thời như KimCa nói hoặc nói cho dễ hình dung là Thời Vận. Có lẽ Tử Vi không giải quyết được việc này. Lá số tử vi hay mở rộng ra là bát tự của mỗi người là yếu tố nội tại, từ đó tương tác ra bên ngoài để tạo thành cái gọi là cuộc đời. Yếu tố bên ngoài vì vậy nằm ngoài tầm của tử vi. Đây là câu nói thường nghe
"Vận con không bằng vận cha, vận nhà không bằng vận làng, vận làng không bằng vận châu, vận châu không bằng vận nuớc".
Nêu một ví dụ cụ thể, cùng lá số nhưng hai đứa trẻ sinh ra ở Việt Nam và Hoa Kỳ hoàn toàn có hướng phát triển khác nhau. Vòng trường sinh tương đồng nhưng rẽ ra hai số phận.
Do đó tôi nghi ngờ việc hành Cục tương sinh cho Mệnh tức là môi trường xung quanh thuận lợi cho đương số. Tôi lại hiểu theo hướng khác, Mệnh được sinh phù nên đủ lực để nắm bắt Thời Vận. Quay lại quan điểm của KimCa, Zodiac nghĩ mình có thể giả định những biến số đồng nhất để tìm ra kết luận nào đó bởi lẽ Tử Vi làm môn dự đoán dựa trên đa yếu tố. Lẽ tất nhiên, đã giả định thì hoàn toàn có thể sai lệch so với những lá số thực chứng.
Tình huống cụ thể: hai người cùng chỉ khác vòng trường sinh ngoài ra những thành phần khác khá tương đồng và quan trọng là cùng sinh ra ở một nơi với hoàn cảnh cũng như cơ hội xung quanh không sai biệt. Theo Zodiac thấy, những sao ở vòng trường sinh theo từng giai đoạn sẽ hỗ trợ (hoặc chiết giảm) lực cho các sao khác đương vận để tương tác với cái Thời bên ngoài. Hiểu như vậy liệu có thể dung hòa phần nào quan điểm của KimCa và Zodiac?
Tóm lại, tôi không nghĩ Tử Vi có thể ảnh hưởng được cái Thời khách quan xung quanh đương số. Nó chỉ phản ảnh lực lượng của lá số để tương tác với bên ngoài. Vòng trường sinh cũng cùng lý lẽ như vậy nhưng cần nhấn mạnh là sức ảnh hưởng của 12 sao này mạnh yếu thế nào vẫn là điều bí ẩn.
P/S: Zodiac không phải Vô Thường và chắc chắn không uyên bác đến mức như vậy. Zodiac chỉ xem Tử Vi như một môn học không khác gì học ngoại ngữ và tiếp cận nó theo quan điểm càng đơn giản càng tốt. Sự kiện lần trước là giải quyết nhân quả từ lâu nên bây giờ xem như chấm dứt.
===> KimCa
Kim Ca đang bàn về chữ Thời trong Tử vi, và mượn Tử Bình để mô tả cho dễ hiểu. Chứ không có nêu quan điểm về Thời ngoài đời, vì ngoài đời vốn rất phức tạp. Thời ngoài đời là thời gian theo quan điểm vật lý, còn Thời Kim Ca nói đến là Thời theo VTSC.
cụ Hà Uyên cho rằng mệnh TPVT cục Thủy khác với mệnh TPVT cục Thổ, mặc dù Thủy Thổ cùng Trường sinh ở Thân, nên cùng tuổi Âm Dương thì sẽ cùng chiều và cùng 12 trạng thái của VTSC. Cụ nói vậy cho thấy Cụ quan tâm đến tương tác của Chính tinh và Cục. Và tất nhiên là có sự tương tác giữa VTSC và Chính tinh rồi.
Đễ dễ hiểu hơn, Kim Ca lấy ví dụ : Mệnh Thủy đến cung Dần có nạp âm là Thổ , tức là mệnh bị khắc, hiểu nôm nay là mất địa lợi. nhưng lại được Trường Sinh cứu cánh, tức là gặp Thời Trường sinh. Nên có thể phát triển tốt dù có khó khăn đi nữa. Đó là được Thời vậy. Phần nhân chính là tổ hợp Chính tinh hợp hay phá cách, phần thiên là Thiên Can đại vận, phần này có vẻ giống Tứ Hóa Phái hơn. Có thể nêu đơn giản về Đại vận là Thiên = Thiên Can phi tứ hoá, Địa = NHNA cung Đại vận, Nhân = VTSC + hợp phá cách tổ hợp chính tinh.
Nói đến đây Zodiac thấy giống quan điểm của mình chưa?
(2) Quach Ngọc Bội
Zodiac, on 19/06/2015 - 09:58, said:
Zodiac cố tình chọn những câu Hán Việt để hy vọng hạn chế tam sao thất bản hay có ở phú Nôm.
1. Mã ngộ Trường Sinh, chung thân bôn tẩu
1. Mã ngộ Trường Sinh, chung thân bôn tẩu
Câu phú này chính là sự tam sao thất bản.
- Mã ngộ Tràng Sinh, thanh vân đắc lộ.
- Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu.
Dĩ nhiên có những trường hợp phụ mà "Mã ngộ Tràng Sinh" vẫn bị bôn tẩu chứ chẳng nhẹ bước thang mây, và cũng có những trường hợp phụ mà "Mã ngộ Không Vong" vẫn chẳng hề bị lang bạt bôn tẩu gì cả. Nhưng những trường hợp này không phải tính chất điển hình đặc trưng để để có thể viết thành phú.
Mã gặp cả Tràng Sinh và Không Vong thì vẫn nổi trội là tính chất bôn tẩu vì Tràng Sinh không phải là vị trí có sức đề kháng hay tạo thành phản cách tốt đẹp khi gặp phải Không Vong. Trong các "sao" thuộc vòng Tràng Sinh chỉ có vị trí sao Thai là là có tính chất đó, thí dụ
Tử Vi hay Thiên Phủ gặp Không Vong thì hỏng, nhưng có thêm sao Thai đồng cung thì được cứu trợ phản chuyển thành tốt đẹp.
Nếu nhìn sự cứu giải của Thanh Long đối với Thiên Phủ ngộ Không Vong thì cũng thấy Thanh Long như vị trí của Thai, khi biểu diễn vòng Bác Sĩ qua 12 trạng thái vòng Tràng Sinh.
Vòng Thái Tuế không thể biểu diễn qua 12 trạng thái vòng Tràng Sinh cho nên không xác định được vị trí sao hữu dụng với Không Vong. Nhưng theo các an các Thần Sát bằng Địa Chi tuổi thì có 4 tuổi nghiễm nhiên được miễn nhiễm với trường hợp Mã ngộ Không Vong, đó là các tuổi Dần Thân Tị Hợi (riêng Thần Sát này không thấy các sách Tử Vi an vào lá số, nhưng có nhắc đến trong TVĐS Toàn Thư và Toàn Tập:Phàm mã hữu lan hữu an tắc vi cát, tắc hữu đình chỉ, vô lan giả tắc vi tán mã.)
Ngoài những tính chất của các "sao" của vòng Tràng Sinh để phối hợp các tinh đẩu khác mà đoán sự kiện họa phúc, đoán các yếu tố âm phần tại cung Phúc Đức, thì 12 trạng thái (QNB thích gọi chúng là "trạng thái" hơn là gọi bằng "sao") của vòng Tràng Sinh mô tả rất rõ nét trạng thái Ngũ Hành của Chính Tinh tại mỗi cung, thông qua đó cứ theo quy luật Vượng Tướng Hưu Tù mà xác định, từ đó phân định rõ được độ mạnh yếu của Cách Cục.
Đơn giản là như thế này:
Số của Cục thì dùng để an các Chính Tinh.
Hành của Cục thì dùng để an 12 trạng thái vòng Tràng Sinh.
Như vậy thì dễ dàng nhận thấy mỗi một trạng thái Sinh Vượng Tử Tuyệt,... trong 12 trạng thái của vòng Tràng Sinh đều mô tả về trạng thái Ngũ Hành của Chính Tinh đóng cùng nó.
Thí dụ như Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần là Nhâm Dần thì tức là Kim 4 Cục. Nếu như người này mà có Thất Sát thủ Mệnh thì thử hỏi độ mạnh yếu của Cách Cục "Thất Sát triều Đẩu" (TSTĐ) của người này sẽ mạnh yếu như thế nào so với những người có cùng Cách Cục TSTĐ nhưng tuổi khác cục khác?
Bởi vì Thất Sát là Kim mà rơi vào vị trí Kim bị Tuyệt thì dĩ nhiên là Cách Cục TSTĐ của người tuổi Đinh Nhâm sẽ kém hơn tất cả những tuổi khác có cùng Cách Cục ấy.
Lại thí dụ Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần (Kim 4 Cục), nhưng có Vũ Tướng thủ Mệnh, vậy thì trạng thái của Vũ Khúc là Kim Tuyệt, mà khi Kim bị Tuyệt thì Thủy của Thiên Tướng ở đó sẽ tương ứng với trạng thái rất yếu về ngũ hành, coi như bị Hưu/Tù.
Các thế đứng khác cũng tương tự theo đó mà suy luận ra.
Phương pháp xét ngũ hành này được các cụ xưa áp dụng rất nhiều, nếu ai đọc hết các bài viết trong bộ Tạp Chí KHHB trước 75' thì sẽ thấy có rất nhiều bài luận áp dụng nó.
(3) Alex Phong
QuachNgocBoi, on 19/06/2015 - 16:24, said:
Thí dụ như Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần là Nhâm Dần thì tức là Kim 4 Cục. Nếu như người này mà có Thất Sát thủ Mệnh thì thử hỏi độ mạnh yếu của Cách Cục "Thất Sát triều Đẩu" (TSTĐ) của người này sẽ mạnh yếu như thế nào so với những người có cùng Cách Cục TSTĐ nhưng tuổi khác cục khác?
Bởi vì Thất Sát là Kim mà rơi vào vị trí Kim bị Tuyệt thì dĩ nhiên là Cách Cục TSTĐ của người tuổi Đinh Nhâm sẽ kém hơn tất cả những tuổi khác có cùng Cách Cục ấy.
Lại thí dụ Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần (Kim 4 Cục), nhưng có Vũ Tướng thủ Mệnh, vậy thì trạng thái của Vũ Khúc là Kim Tuyệt, mà khi Kim bị Tuyệt thì Thủy của Thiên Tướng ở đó sẽ tương ứng với trạng thái rất yếu về ngũ hành, coi như bị Hưu/Tù.
Bởi vì Thất Sát là Kim mà rơi vào vị trí Kim bị Tuyệt thì dĩ nhiên là Cách Cục TSTĐ của người tuổi Đinh Nhâm sẽ kém hơn tất cả những tuổi khác có cùng Cách Cục ấy.
Lại thí dụ Nam nhân tuổi Đinh/Nhâm mà lập Mệnh tại cung Dần (Kim 4 Cục), nhưng có Vũ Tướng thủ Mệnh, vậy thì trạng thái của Vũ Khúc là Kim Tuyệt, mà khi Kim bị Tuyệt thì Thủy của Thiên Tướng ở đó sẽ tương ứng với trạng thái rất yếu về ngũ hành, coi như bị Hưu/Tù.
Tại dần thì kim luôn luôn tuyệt, mộc luôn lâm quan, thủy thổ luôn bệnh, hỏa luôn trường sinh. Nếu luận như trên thì bất kỳ cục gì Vũ Tướng tại dần cũng luôn có Kim Tuyệt Thủy Bệnh. Cho nên, có lẽ đó không phải cách dùng cục chính xác.
Miếu hãm của chính tinh không phụ thuộc vào cục. Cho nên, vòng trường sinh của cục chỉ cho biết trạng thái mạnh yếu của năng lượng lá số. Tại vị trí Tuyệt coi như bất hoạt, tại vị trí mộ coi như bị ngưng trệ, tại đế vượng năng lượng cao nhất.
Năng lượng này chính là khả năng hoạt động của chính cá nhân đó, là yếu tố Nhân trong tam tài. Tại vị trí Tuyệt, cá nhân đó chỉ còn trông chờ vào Trời Đất. Tại vị trí Mộ, họ như bị cầm tù. Tại ví trí Vượng, họ hoạt động năng nổ nhất.
===> QuachNgocBoi
Không phải. Vì đối với người Nữ tuổi Đinh Nhâm lập Mệnh tại Dần lại khác với người nam, khi đó Kim của Thất Sát hay Vũ Khúc rất mạnh.
Ý nghĩa chính của phương pháp xét Ngũ Hành mà tôi trình bày bên trên là dùng để: so sánh sự mạnh yếu trên cùng một Cách Cục giữa các lá số khác nhau (về tuổi hoặc về giới tính), chứ không phải là để xét xem trên 1 lá số thì nó mạnh hay yếu (10 điểm hay 1 điểm).
Cũng nói rõ luôn rằng phương pháp dùng Ngũ Hành không phải là phương pháp duy nhất để so sánh sự mạnh yếu giữa các lá số có cùng 1 Cách Cục. Nguời ta có thể dùng Tinh Đẩu để xét, nhưng mà sự định lượng bằng tính chất các Tinh Đẩu là kém rõ ràng mạch lạc hơn dùng Ngũ Hành trong việc này.
(4) QuachNgocBoi
Khẳng định này phải đi kèm khẳng định "vòng Trường Sinh luôn đi theo chiều đại vận", vì áp dụng vòng trường sinh cố định vào thì các lá số không khác gì nhau.
Đúng như vậy, bởi vì đây là chủ đề "Ý nghĩa Vòng Tràng Sinh Cục" cho nên không cần thiết phải khẳng định lại rằng "vòng Tràng Sinh luôn đi theo chiều đại vận" tức là Dương nam Âm nữ thì đi thuận và Âm nam Dương nữ thì đi nghịch.
Còn Vòng Tràng Sinh cố định (chỉ có một chiều thuận) là nói về Vòng Tràng Sinh của Bản Mệnh.
Các quan điểm an Vòng Tràng Sinh Cục luôn theo một chiều thuận đều là các quan điểm không chính thống nên chúng ta không cần bàn đến ở đây.
Giữa các tuổi khác nhau thì có rất nhiều phụ tinh an bởi can và chi năm cũng khác nhau đi cùng. Có thể dựa vào các phụ tinh này để đánh giá mạnh yếu của cách cục.
Như trên tôi đã nói, cách dùng Ngũ Hành không phải là phương pháp duy nhất, mà có thể sử dụng Tinh Đẩu, để so sánh độ mạnh yếu của cùng Cách Cục trên các lá số khác nhau.
Nhưng trong khuôn việc so sánh này thì phương pháp dùng Ngũ Hành là đạt được sự định lượng rõ ràng mạch lạc hơn, bất cứ ai dù mới học cũng có thể áp dụng được dễ dàng vì theo Ngũ Hành đã phân chia thành các mức độcâo thấp Vượng - Tướng - Hưu - Tù - Tử rất cụ thể.
Còn nếu dùng phương pháp định lượng bằng tính chất các Tinh Đẩu thì rất mơ hồ, đòi hỏi sự nhạy bén và kinh nghiệm, người mới học không thể áp dụng được.
Thí dụ cùng là Cách Cục "Thất Sát triều đẩu", những người thiếu kinh nghiệm làm sao so sánh được sự mức độ giữa lá số có Cách Cục này nằm trong tam hợp Dương-Tử-Phúc là mạnh hơn hay yếu hơn lá số có Cách Cục đó nhưng nằm trong tam hợp Âm-Long-Trực. Hoặc thí dụ, làm sao phân biệt được sự mạnh yếu giữa các lá số có cùng một Cách cục mà nằm trong thế Thanh Long - Phi Liêm - Phục Binh với thế Tiểu Hao - Hỉ Thần - Quan Phủ.
Đa số những người thiếu kinh nghiệm chỉ có thể phân biệt sự mạnh yếu các lá số tuổi/giới tính khi rơi vào trường hợp cùng Cách Cục mà có hội hay không hội Thái Tuế, Lộc Tồn.
Vòng Trường Sinh vốn không phải là lựa chọn bất kỳ mà bị phụ thuộc vào năm sinh.Ví dụ: Năm Giáp Tý, cung dần mão là Bính Dần Đinh Mão thuộc hỏa, tại dần Hỏa Trường Sinh nhưng tại mão là Mộc Dục. Thìn là Suy, Tỵ là Bệnh của Mộc. Tại ngọ mùi là thai dưỡng của Thổ, tại thân dậu là Lâm Quan đế vượng của Kim. Tuất hợi là mộ tuyệt của hỏa. Hợi Tý là Lâm Quan đế vượng của Thủy. Như vậy, trong từng năm sinh đã ẩn tàng sự mạnh yếu của các cung (chính là tháng) khác nhau trước khi có chính tinh. Cho nên, vòng Trường Sinh Cục đánh giá mạnh yếu của 12 cung trong năm đó thì đúng hơn.
Đánh giá sự mạnh yếu của 12 cung Địa Chi (từ Tý đến Hợi) thì cần căn cứ vào các vị trí của Vòng Tràng Sinh an theo Bản Mệnh vì nó là theo Ngũ Hành Nạp Âm với Can-Chi của Năm sinh.
Đánh giá sự mạnh yếu của 12 cung Chức (chức năng, nhân sự, Mệnh Phụ Phúc Điền...) thì mới căn cứ trên các vị trí của Vòng Tràng Sinh Cục, vì nó là theo Ngũ Hành Nạp Âm với Can-Chi của Cung Mệnh.